Leaves

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2011

Trạng Trình

Tiểu sử

Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Nguyễn Văn Định sau được nhà Mạc truy tặng chức Thái bảo Nghiêm Quận công; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục sau được nhà Mạc truy tặng chức Từ Thục Phu Nhân, bà là con gái quan Hộ Bộ Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số và tướng pháp, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.
Ông khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã nói sõi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào.
Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi.
Thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất đầu, lộ diện, đành ở ẩn một nơi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Nhận thấy ông là người tài đức vẹn toàn Nhà Mạc rất quý mến và đặc cách trọng dụng. Ông làm đến chức Lại Bộ Tả Thị Lang kiêm Đông các Học sĩ.
Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe. Lại nhân có con rể của ông là Phạm Giao cậy có thế lực hay làm những điều càn dở, ông sợ liên lụy về sau liền dâng sớ xin về trí sĩ năm 1542.
Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là "Tuyết giang Phu tử". Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính ...
Sau hai năm về trí sĩ, Nhà Mạc lại cho người sang sắc phong Nguyễn Bỉnh Khiêm lên chức Trình Tuyền Hầu, rồi lại thăng chức Lại Bộ Thượng Thư, tước Trình Quốc Công. Về sau người đời thường gọi là "Trạng Trình".
Nguyễn Bỉnh Khiêm mất vào ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585) đời vua Mạc Mậu Hợp niên hiệu Duyên Thanh năm thứ V, hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công.
Tuy đương thời được người trọng vọng vì tác phong đạo đức, vì tài ba lỗi lạc nhưng các triều đại phong kiến lại cho rằng ông đã không theo đúng luân lý của Khổng - Mạnh, đã lỗi đạo vì cúi mình theo thờ nhà Mạc, một kẻ tiếm nghịch đã chiếm ngôi nhà Lê. Do lời buộc tội này mà sau khi ông mất, không được đem vào thờ ở Văn Miếu là nơi tế lễ đức Khổng Tử và các môn đệ của Ngài cũng như các bậc danh sĩ đại khoa.

***** Sấm Trạng Trình - Bản chữ Nôm ****


1. Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5. Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
 

10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.
Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay (1)
Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên (2)
15. Ðông A âm vị nhi truyền (3)
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh (4)
Chấn cung hiện nhật quang minh (5)
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
 

20.Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật (6).
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25.Kìa liệt vương khí hủ (7) đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
 

30.Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở riếng (8) mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35.Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn (9) than
Dưới trên dốc trí lo toan
 

40.Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống ru nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có ý an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45.Dư đồ chia rẽ càn khôn (10)
Mối giường ( 11) man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi (12)
Việc làm bất chính tơi bời
50.Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã gia (13) ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
60. Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
 

65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần (14)
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
 

70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75.Nội thành hoảng hốt hư kinh (15)
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
80.Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
 

85. Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90. Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán (16)
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
 

95.Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi (17)
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra (18)
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về (19)
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới (20),
Gặp nước bung (21) con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
 

110.Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.
115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến (22) đã dời đất cũ
120. Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) (23) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
 

125. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
130.Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn Đẩu, Thai (24) những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
135. Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời này thánh kế vi vương
140.Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thánh long
Thánh nhân cư có thụy cung
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
155. Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một tí (25) đều không
Ví dù có gặp ngư ông
160.Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy, thần kinh
Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170. Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175.Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
180.Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
 

185.Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tham ( tam ?) hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Ðòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195.Man mác một đỉnh Hoành Sơn (26)
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền đầu khỉ cuối thu (27)
200.
Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215.Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
220.Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225,Nào ai đã dễ nhìn u
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
230. Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình (28)
235.Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau.
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
250.Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255.Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường


Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
260.Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê (29)
Có thầy Nhân thập (30) đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265.Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
 

270.Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275.Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
280.Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
II
281. Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian (31)
285.Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình

Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
290.Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân doãn mà đi (32)
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
295.Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
300. Tai nghe bằng một ti hào biết hay (33)
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305.Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho nhân doãn hết sau ,
310.Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (34) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315. Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
320.Muốn làm tướng súy lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
325. Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
330. Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335.Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340.Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345.Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
350.Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
355.Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
360.Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta.
365.Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông (35) hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370.Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến thời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này

375.Thiên sinh thiên tử ư 
HÒA thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
 

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử
Bảo Giang môn
Kìa cơn gió thổi lá rung cây (36)
 

380. Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
 

385.Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
390. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.

395.Canh niên tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ khởi đao binh
400. Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.(37)

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405.Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.

410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định (38)
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an.

Bảo Giang thiên tử xuất
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
425.Thất thập cổ lai xuân
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành (39).
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
430.Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Man cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trâm nhi bắc kinh
Ký mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
440.Chư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lường

450. Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại Ngưu lang
Mại dữ lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dữ thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
460. Nhân nghĩa thùy vi địch.
Ðạo đức thùy dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch thán hung hoang.
470.Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tái vô lường
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành.
Ðoài phương phúc điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân.
480. Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .


Nguyễn Bỉnh Khiêm


******CẢM ĐỀ Nguyễn Bỉnh Khiêm****
1- Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá Phép đổi dời
Đầu non mây khói tỏa
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gửi lại đời
Dở hay nên tự lòng người cả
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi.

****** SẤM KÝ*****
15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành
21- Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A xuất nhập
Dị mộc tái sinh.
25- Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh.
Phụ nguyên trì thống,
Phế đế vi đinh.
29- Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
37- Lê tồn, Trịnh tại,
Lê bại, Trịnh vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang.
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
43- Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
47- Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.
51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chim chích u mê,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.
55- Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.
61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.
69- Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa năm hai bẩy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.
77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
81- Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan.
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
85- Ra tay điều độ hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
89- Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù trì
93- Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng.
103- Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi nên giữ cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.
109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.
117- Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?
121- So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở, cát bồi
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma
125- Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.
129- Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà tìm thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh non đoài
141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu
145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường
149- Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài lược thao uyên bác vũ văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.
155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?
159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức này quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình
165- Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
169- Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe
Lại còn áo mũ xun xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
173- Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
177- Can qua, việc nước bời bời
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
181- Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
189- Sự đời tính đã phân minh
Thanh nhàn mới kểchyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời
197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.
201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
205- Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
211- Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái bình âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn
215- Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân
219- Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái bình
223- Phú quý hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giã giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
233- Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?
239- Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào
243- Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh
247- Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai
Can qua chiến trận để người thưởng công
251- Trẻ già được biết sự lòng
Ghi làm một bản để hòng giở xem
Đời này những thánh cùng tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân
255- Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.
259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.


***********TRẠNG TRÌNH TRƯỜNG THIÊN SẤM  *****
Chép theo cuốn “Sấm Trạng Trình” của Đông Nam Á, xuất bản năm 1964 ở Sàigòn
I
1_Vận lành mừng gặp tiết lành
2_Lấy trong dịch biến trở thành nên câu
3_Một câu là một nhiệm màu
    Anh hùng ngẫm được mới hầu giá cao
    Tại vì sao mây che Thái Ất
     Thuở cung tây xe nhất phù lên
     Việt nam khởi tổ gây nên
     Lạc Long ra trí đương quyền một phương
    Thịnh suy bỉ thái chẳng thường
    Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11_Đến Đinh Hoàng là ngôi cửu ngũ
      Mở bản đồ rũ áo chắp tay
13_Ngũ đao phút chốc đổi thay
14_Thập bát tứ giấy quyền đà nổi lên
15_Đông A âm vị nhi truyền
16_Nam phương kỵ mộc bỗng liền lai sinh
17_Chấn cung khôn chống trường thành bên cho
      Đoài cung vẻ rạng trăng thu
      Ra tay mở lấy đê đô vẹn toàn
21_Sang cửu thiên ấm vừng vừng hồng nhật
22_Dưới lấn trên ăn vận uống quen
23_Sửa sang muôn vật cầm quyền
24_Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25_Kìa liệt vương khí hư đồ ứng
26_Mạc cưỡng hầu ông ổng tranh khôn
27_Trời sinh ra những kẻ gian
28_Mặc đổi phép mặc ngoan tham tàn
29_Áo vàng ấm áp đã hay
30_Khi xui đắp núi khi sai xây thành
31_Lấi lạc đièn làm công thiên hạ
32_Được mấy năm đất lở giếng mòn
33_Con yên anh ách tranh khôn
34_Vô gia mở hội mong tôn làm chùa
35_Cơ trời xem đã mê đồ
36_Đã đổ lại muốn đổ mơ cho người
37_Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
38_Suốt vạn dân cùng giận nhân thân
39_Dưới trên dốc chí lo toan
40_Những đứa bán nước bán quan làm giàu
41_Trông rủ nhau làm mồi phú quí
42_Mấy trung thần có ý an dân
43_Đua nhau làm sự bất nhân
44_Đã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45_Dư đồ chi ãe kiến khôn
46_Mối giường man mác khiếp mòn lòng nhau
47_Vội sang giàu giết người lấy của
48_Sự có chăng mắc nợ ai đòi
49_Việc làm bất chính tơi bời
50_Mình ra bỗng lại thấy thôi bây giờ
51_Xem tướng đã già ra trước
52_Còn hung hăng baọ ngược quá xưa
53_Cuồng phong cả sớm liền trưa
54_Dạ dân cửu khúc con thơ thi đề 
55_Ấy tần Vương ngủ mê chẳng biết
      Để vạn dân dê lại giết dê

57_Luôn năm chật vật đi về
58_Âm binh ở giữa nao hề biết đâu
      Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng

       Cùng một lòng trời chống khác nào

       Xem người dường vững chiêm bao

       Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

       Một gốc thanh làm tâm chúng quỉ

       Đua một lòng ích kỷ hại nhân

65_Bốn phương rồ rộ hồng trần
66_Làng khua mõ cá làng phân điểm tuần
      Tiếc là những xuất làm sao

      Giục khua loài thỏ cáo tranh nhau

      Nhân đành trốn hết đâu đâu

      Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

71_Hùm già lạc dấu khôn về
72_Mèo non chi chí tìm về cố hương
      Chơn dê mong khỏi tiêu tường

      Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

      Nội thành hoảng hốt hư kinh

      Đầu khỉ tin xứ chẻo thành lại sang

      Bỏ mồ hôi, Bắc giang tại Mã

      Giữa hai xuân, bống phá tổ long

      Quốc trung kinh dụng cao không

      Giữa năm vả lại khiêm hung mùa màng

      Gà đâu sớm gáy bên đường

      Chẳng yên thì cũng bất tường chẳng không

      Thủy binh cờ phấp vân hồng

      Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

85_Đứng hiên ngang đố ai biết trước
86_Ấy Bắc binh sang việc gì chăng
87_Ai còn khoe trí khoe năng
88_Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
89_Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90_Bỗng nhiên người giá họa cho dân
91_Muốn bình sao chẳng lấy nhân
92_Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
93_Đã lên sĩ Hoàn Linh đời Hán
94_Đúc tiền ra bản tước cho dân
95_Sun soe những đắp cạy quân
      Chẳng ngờ thiện ác xoay vần đã công

      Máy hóa công nắm tay để ngó

      Lòng báo thù ai thuở đã nguôi.
100_Thung thăng tưởng thấy đạo trời
         Phù Lê diệt Mạc nghĩ dời quân ra
         Cát lần bốn bể can qua
103_ Nhuyên thì chẳng được sẽ ra lại về
104_Quân hùng tướng mạnh đầy khe
105_Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
106_Bây giờ càng khôn ai ơi
107_Quỷ ma chật vật biết trời là đâu
108_Thương những kẻ ăn rau ăn rưởi
109_Gặp bước cùng con cái ở đâu
110_ Báo thù ấy chẳng sai đâu
111_Tìm non cỏ rẫy chừng sau mới toàn
112_Xin những kẻ hỏa lòng sự chúa
113_Thấy đâu hơn thì phụ thừa ân
114_Cho nên phải báo trầm luân
         Ăn khôn mới được bảo thân đời này
         Nói cho hay khảm cung rồng giậy
         Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
         Chữ rằng lục bát  nguyện gian
         Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
121_Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
122_Thì phụ nguyên mới trổ binh ra
123_Bốn phương chẳng động can qua
124_Quần hùng khắp xứ điều hòa làm tôi
        Bấy giờ rộng mở quy khôi
        Thần châu cả thu mọi nơi vẹn toàn
        Lạ nói sự Hoàng đã định Tây Phong
        Làu làu thế giới sáng trong
130_Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
        Rõ sinh tài lạ khác thường
132_Thuấn Nghiêu là trí, cao quang cập tài
        Xem trời ý có lòng khai thánh
        Dốc sinh hiền điều định hôm mai
        Chơn đầu  thấy những vĩ sao cả
        Dùng ở tay phụ tá vương gia
        Bắc phương chính khí sinh ra
        Có ông Bác sĩ điều hòa hôm mai
        Song thiên nhật nguyệt sáng soi
        Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
        Đời nay Thánh kế vị Vương
        Đủ no đạo đức Văn chương trong mình
        Uy nghi trang mạo khác hình
        Thác cư một góc kim tinh phương Đoài.
        Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
        Chờ cơ sẽ mới ra tài giúp dân
        Binh thư mấy quyển kinh luân
        Thiên văn địa lý nhân luân cũng mầu
        Người biết đâu anh hùng hẳn biết
        Xem sắc mây đã biết thành long
        Thánh nhân cư cổ thủy cung
        Quần thần đã định xin lòng chớ tham
        Lại dần dần tự am chí cả
154_Chớ vội vàng tất tả chạy rông
155_Học cho biết lý cát hung
        Biết hương hội cổ chớ dùng làm chi
        Hễ trời sinh xuống phải thì
        Bất kỳ nhi nhộ mạng vì tường trong
        Kìa những kẻ vội lòng phú quý
160_Xem trong mình một lý điều không
 
161_Ví dù có gặp ngư ông
 162_Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
163_Xin khuyên đấng thời trung quân tử
164_Lòng trung nghi ai nhớ chi tinh
165_Âm dương cơ ngẫu ngộ sinh
166_ Thái Nhâm Thái Ất trong lòng cho hay
167_Văn thi luyện nghiên bài quyết thắng
168_Khen tử phòng cũng đấng Khổng Minh
169_Võ thông yên thủy thần kinh
170_Được vào trận chiến mới rành biến cơ
171_Chớ vật vờ quen loài ong kiến
172_Biết ra tay miệng biến nói không
173_Ngỡ hay gặp hội mây rồng
174_Công danh choi chói chép trong vân đài
175_Bây giờ phí sức chí trai
176_Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
177_Nặng lòng thức cổ vi kinh
178_Cao tay mới biết gẫm tinh năm nào
179_Trên trời có mấy vì sao
        Dư lộ hiện tượng anh hòa đôi nơi
     Nước nam thường có thánh tài
     Ai không xem mấy hôm mai mới tường
    Sơ mấy lời để tặng kim quy
    Cho hậu lai có chi sẽ rõ
    Trước là biết nẻo tôn phò
     Sau là cao trí biết lo mặc lòng
187_Xem cung đoài đến thời bất tạo
188_Thầy Vĩ tinh liệu đảo cho mau
189_Nguôi lòng tham tước tham giàu
190_Tìm nơi thâm hiểm mới hầu bảo thân
191_Trẻ con mang lệnh tướng quân
192_Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
193_Ai lấy gương vua U thuở trước
194_Loạn vì ru tham ngược bất nhân
195_Bốn phương ong khởi lần lần
196_Muôn sinh bá hộc cầm quân giấy loàn
        Man mác một đỉnh Hoàng sơn
        Thừa cơ liền mới khởi cơn phục thù
         Ấy là những binh thư thái thái
        Lòng người xui ai nấy biết ru
 
201_Phá đền đầu khí cuối thu
        Tài binh mới động thập thò liền sang
        Lọ chẳng thương trăm năm khôn xiết
        Vả lại thêm hung kiết mất mùa
        Lưu tinh hiệu trước đôi thu
206_ Bấy giờ thiên hạ mây mù dư năm
207_Coi thấy những sương sâm tuyết lạnh
        Loại bất bình tranh mạnh hung hăng
      Thành câu cá lượn tưng bừng
       Kẻ ngăn đông hải người rừng Bắc Lâm
 211_Chiến trường chốn chốn cát lầm
         Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
         Sang thu chính nguyệt hồng tư giá
         Lợi, đàn dễ tranh tá đôi nơi
         Đua nhau đầu tháng quần lê
         Bấy giờ thiên hạ khốn bề tựa nương
         Kẻ thì phải thuở hùng hoan
         Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
         Kẻ thì mắc thuở hung tan
         Kẻ thì bận của bôn toàn khốn mình
         Muông vương dụng tổ can tranh
         Diêu trì làm chước xuất binh thủ thành
         Bời bời đua mạnh tranh hành
         Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày.
         Bể thành cá phải ẩn cây
         Đất bằng nổi sóng cát bay bụi mù
         Nào ai đã dễ nhìn ư
         Thủy chiến, bộ chiến mặc dù đôi phen
         Cây bay là lửa đốt ngàn
         Một làng còn mấy chim đàn bay ra
         Bốn phương cùng có can qua
         Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
         Đoài phương thực có chân nhân
         Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
         Tìm cho được chốn được nơi
237_Thái Nguyên một dải là nơi trú đình,
         Bốn bề núi đá rêu xanh
         Một đường tiểu mạch nương mình đây an.
240_ Hễ đông nam nhiễu phen tan tác
241_Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
242_Bắc Kinh mới thực Đế kinh
243_Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
        Chim Hồng vỗ cánh bay cao
        Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
        Ai dễ cứu con thơ sa giếng
        Đua nhau lòng tranh chiến giục nhau
        Vạn dân chịu thuở âu sầu
        Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
        Cấy cầy thu mãi thời mưa
        Bây giờ phá ruộng lo chờ mượn ai
        Nhân ra cận duyệt viễn lai
        Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
        Xem tướng trời biết đường đời trị
       Ngẫm về sau họ Lý xưa nên
       Giống nhà dễ thấy dấu truyền
       Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
       Thần quy cơ nỗ ở trời
       Để làm thần khí thuở nơi chí trường
       Lại nói sự Hoàng Giang sinh Thánh
    Sông Bảo giang thiên định ai hay
    Lục thất cho biết ngày đây
    Phụ nguyên ấy thực,ở đầy tào khê
 
264_Có thầy nhân thập đi về  
265_Tả phù hữu trì cây cỏ làm binh         
Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp          


Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời          
Ra tay điều định hôm mai          
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân          
Lọ là phải nhọc kéo quân          
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về          
Năm giáp tý vẻ khuê đã rạng          
Lộ ngũ tinh trình tượng thái hanh          
Ơn trên vũ khí vận hành          
Kẻ thờ ký tủy, kẻ canh xuân đài          
Bản đồ chẳng sót cho ai          
Nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn          
Vững nền vượng cha truyền con nối          
Giới muôn đời một mối xa thư          
Bốn bên tâm lặng bằng tờ          

Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân           
Âu vàng khoe đặc vững chân           
Càng bền thề nước vạn xuân lâu dài
II
         Vừa năm Nhâm Tý đầu xuân
         Thanh nhàn ngồi tựa, tưởng câu nghĩ đời
          Quyển vàng mở thấy sấm trời
         Từ Đinh đổi dời chí lúc thất gian
          Một đời có một tôi ngoan
         Giúp trong việc gặp dân an thái bình
         Luận chung một tập kim thời
         Tướng quyền sĩ tử nam nhi học đòi
         Trượng phu có chí thời coi
         Những câu nhiệm nhạt đáng đôi ngàn vàng
       Tài này nên đứng vẻ vang
        Biết chưng đổi trí, biết đường đổi suy
       Kể từ nhân đoạn mà đi
       Sổ chưa gặp thì biết họa chép ra
       Tiếc thay hiền sĩ bảo gia
       Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
       Thư chờ tay giúp ra dùng
       Tài này so cùng tài trước xem sao?
       Trên trời kể chính từng cao
       Tai nghe bằng một tỷ hào biết ngay
       Hiềm vì sanh phải thời nay
       Rắp phù mở nước tiếc thay chưng đời
       Hợp đã thấy thánh nghìn tai
       Giáng sinh rủi kiếp quỷ ma nhà trời
       Nói ra thì lậu sự đời
      Trai tài phải lụy, tài trai khốn luồn
      Nói ra ám chúa bội quân
      Đương thời đổi trí xoay vần sáng đâu?
      Chờ cho nhân đoạn hết sau
      Đến chừng thời ấy thấy dân nhiều nàn
      Trời xui những kẻ ác gian
     Kiếp đời đaọ thiết lăng loàn có hai
      Vua nào tôi nấy đã bày
       Trên đầu bất chánh dưới nay dấy loàn
      Đua nhau bội bạn nghịch vi
    Ích gì phi kỷ dân thì khốn thay
    Biết tài gẫm được thì hay
    Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng
    Tài trai có chí anh hùng
    Muốn làm tướng súy lập công chưng đời
   Khá xem nhiệm nhạt sổ trời
   Cơ mưu nhiệm nhạt mấy trai anh hùng
   Đi tìm cho đến đế cung
   Rắp phù xuất lực để cùng được toan
   Bảo nhau cương kỷ cho tường
   Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
   Chờ cho động đất chuyển trời
   Bấy giờ thánh sẽ lên trai anh hùng
  Còn bên thi nấu chửa xong
  Nhân lực cướp lấy thiên công những là
  Đời ấy những quỷ cùng ma
  Chẳng còn có thấy người ta đâu mà!
  Trời cao đất rộng bao xa
  Làm sao cho biết cửa nhà Đế Vương
 Dù trai ai chửa biết tường
 Nhất thổ thời sĩ khảm phương thuở này
Y ra lục thất gian nay
Thời vận đã định tuần này hùng vương
Trí xem nhiệm nhạt cho tường
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này
Vua ngự thạch bàn xa thay
Đầu ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Đường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn dò
Nhân dân vắng mặt bằng tờ
Sơn lâm còn ở đỗ nhờ khốn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong diêu vũ thuận thử giày an thân
Phong đăng hỏa cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần xoay
Thực thày thiên tử là tay trị đời
Anh hùng trí lượng thì coi
Công danh chẳng ngại tìm đời ra đi
Tìm lên đến Thạch Bàn Khê
Có đất sinh ở bên kia cuối làng
Nhìn đi nhín lại cho tường
Chưa có sinh thánh sinh vương đâu là
Chẳng tìm thì đến Bành Gia
Thánh chúa sinh thánh bảo ca địa hình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đời vây
Hữu bộ uốn khúc giang mây
Minh Vương Thạp Điện trước bày mắt ta
Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bục trông hồ sau
Ây là Thiên tử về chầu
Tưởng chừng để thánh, tổ lâu trị đời
Song thiên nguyệt rạng sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
Đến đời thịnh vượng còn lâu
Danh đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Đông, Bắc, Tây, Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trong này
 
388_Thiên sinh thiên tử ư hoa thôn,
         Một nhà họ nguyễn phúc sinh tồn
         Tiên sinh cha mẹ đà cách trở
         Hậu sinh Thiên Tử Bảo Giang môn
392_Kìa cơn gió thổi lá rung cây
393_Rừng Bắc sang Nam, Đông với Tây
        Tan tác Kiến Kiều An đất nước
        Xác xơ cổ thụ sạch am mây
        Sơn lâm nổi sóng mù Thoa cát
        Hưng địa tràn dâng hoa nước đầy
        Một giở một yên, ai cúng bái
399_Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
        Con mừng búng đít con quay (vụ)
        Vu vu chong chóng gió bay nên đài.
 
402_Nhà cha cửa đóng then gài
403_Ầm ầm sấm động hỏi người đồng lân
404_Tiếc tám lạng thương nửa cân
         Biết rằng ai có đủ phần như ai
         Vắt tay năm nghĩ dông dài
407_ Thương người có một lo hai phận mình
406_Canh niên tàn phá. Tuất Hợi phục sinh
         Nhị ngũ dư bình
409_Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh
        Can qua xứ xứ khởi đao binh
        Mã đề dương cước anh hùng tận
412_Thân Dậu niên gần kiến thái bình
         Non đoài vắng vẻ bấy lâu nay
         Có một đàn xà đánh lộn nhau
         Vượn nọ leo cây chờ sĩ bóng
         Lợn kia làm quái phải sai đầu
         Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
         Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
         Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
         Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu
         Cửu cửu càn khôn rỉ định
         Thanh minh thời tiết hoa tàn
423_Trực đáo dương mã vĩ
424_Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
        Bảo giang thiên tử xuất
 
426_Bất chiến tự nhiên thành
427_Lê dân đao bảo noãn
428_Tứ hải lạc âu ca
        Dục thức thánh nhân hương
430_Qua kiều cư bắc phương
        Danh vì Nguyễn gia tự
        Kim tích sinh ngưu lang
       Thượng đại nhân bất nhân
        Thái Ất dĩ vong ân
        Bạch hổ kim đai ấn
        Thái thập cổ lai xuân
437_Bắc hữu kim thành tráng
438_Nam tắc ngọc bích thành
439_Hoa thôn dã khuyển phệ
440_Mục giả dục nhân canh
441_Phú quý hồng trần mộng
442_Bần cùng bạch phát sinh
443_Anh hùng vương kiếm kích
444_Nam cố đô thái bình
 
445_Nam việt hữu ngưu tinh
446_Quá thất thân thủy sinh
447_Đại giới sĩ vi bạch
448_Thủy trầm nhi bất kinh
449_Kỵ mã sự đương tẩu
        Phụ kế thánh đại minh
451_Chư thử giai phong khởi
452_Thìn mão xuất thái bình
453_Nhân nhân tòng bắc khởi
454_Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
455_Bảo sơn thiên tử xuất
456_Bất chiến tự nhiên thành
        Thủy cung tàng bảo cất       
        Hứa cấp thánh nhân hương
        Mộc hạ chậm chậm khẩu
        Danh thế xuất năng lương. 
461_Danh vi Nguyễn Gia Tự
462_Tinh bản tại ngưu lang
        Mãi dữ lê viên đương
        Khởi nguyệt bố đại giang
        Hoặc kiều tam lộng ngàn
       Thiên dữ thân thức thủy
468_Thủy sinh ngũ sắc quang
        Kim kê khai lưu diệp
470_Hoàng cái xuất quỷ phương
        Nhân nghĩa thùy vi dịch
        Đạo đức thùy du dương
473_Tổ truyền nhị thập ngũ
474_Vân khai ngũ, diên trường
475_Vận đáo dương hầu ách
476_Chấn đoài cửơng bất trường
477_Quân gian dao danh sứ
478_Bách tính khổ tai ương
479_Can qua tranh đấu khởi
480_Phạm địch thán hung hoang
        Ma vương sát đại quỷ
482_Hoàng thiên chu ma vương
483_Kiền khôn phụ tại vô lường
484_Đào viên định phát quần dương tranh hùng
485_Cơ nhĩ ngũ thư hùng vị quyết
486_Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
487_Ta hồ vô phụ vô quân
488_Đào viên tán ngô dân thủ thành

490_Đoài phương phúc địa giang linh
491_Cửu trùng thụy ứng long thanh ngũ vân
492_Phá điền thiên tử giáng trần
493_Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
494_Trần Công nãi thị phúc tâm
495_Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
        Tướng thần hệ xuất y chu
497_Thư kỳ phục kiến Đương Ngu thị thành
498_Hiệu xưng thiên hạ thái bình
499_Đông, tây vô sự nam thành quốc gia

**************************************
Liễu Hạnh


Thiên cơ chẳng dám nói ra,
Có duyên văn tự thì ta giải cùng
Ba màu đến lúc suy vong,
Khỉ về gà gáy vừng hồng nổi lên
Ngồi vui nhắp chén trà sen,
Uống mà xem lũ đảo điên luân thường.
Mèo lui cáo nắm mối giường,
Tương tàn cốt nhục nhiễu nhương mọi bề
Dân gian mấy độ hợp ly
Đồng hoang nhuộm máu kinh kỳ xương phơi
Quỷ ma giao chiến đòi nơi,
Quỷ ở trên trời ma ở dưới hang.
Cỏ cây non nước điêu tàn,
Quỷ nọ ra hàng ma nọ mới thôi.
Khúc rồng ai chặt làm đôi
Hồng Lam nhuộm vết muôn đời nhuốc nhơ.
Kể dư nhị ngũ có thừa,
Thầy tu mở nước bấy giờ ai hay
Chẳng qua cũng giống quỷ tây
Ma tàn quỷ hết đến ngày Long Hoa
Khỉ vào gà gáy oa oa,
Bốn phương lại động can qua ngất trời.
Quỷ ma từ đó đi đời,
Phụ nguyên trời đã định ngôi sẵn sàng
Chó mừng tân chủ rõ ràng
Nước non lại thấy huy hoàng một phen
Thanh bình muôn thuở rọi truyền
Từ đây con cháu Rồng Tiên hùng cường
Khuyên ai giữ vững cương thường,
Có tu ắt hẳn vinh xương ai bì
Còn nhiều duyên nữa lo chi
Mai đây anh kiệt đến kỳ gặp nhau
Việt nam lừng tiếng năm châu
Nói qua mấy chữ để sau suy lường.
 

Sơ Lược về Chúa Liễu Hạnh.
 
Liễu Hạnh là một trong bốn vị “Tứ bất tử” của truyền thuyết Việt Nam.(Sơn tinh, Chữ Đồng Tử, Thánh Gióng, Bà Chúa Liễu). Vị bất tử thứ tư kể trên đã trở thành tổ của một “Đạo Thờ Mẫu” được coi là một thứ tín ngưỡng mang tính dân gian và tính Việt thuần túy nhất, so với các tôn giáo có nguồn gốc “ngoại nhập” (Phật, Lão,Thiên chúa). Mẫu có một quê hương, có một ngày giỗ, có cả lăng mộ hẳn hoi.
Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ
Ngày 8 thánh 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Mẹ (Mẫu) Liễu Hạnh, ngày lễ chính của Hội Phủ Giày, một lễ hội đông vui bậc nhất nước ta trước Cách Mạng Tháng Tám mở đầu từ Tết kéo dài đến hết tháng ba. Người ta nói cái tên Phủ giày bát nguồn từ sự tích chúa Liễu sau khi giáng trần làn thứ hai đã tặng nhà vua đương thời (triều Lê) một đôi giày khi vua ghé thăm quê hương trần thế của bà
Quê ấy là thôn Vụ Bản (nay thuộc tỉnh Nam Hà). Các truyền thuyết được ghi lại trong “Vân cát thần nữ truyện” (Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm) “Liễu Hạnh công chúa diễn âm” (của Nguyễn công Trứ), “Vân Cát thần nữ cổ lục diễn âm” (khuyết danh), nữ thần Liễu Hạnh” (Ts. Nguyễn Văn Huyên viết bằng tiếng Pháp in năm 1944…(Phần giới thiệu tiểu sử Liễu Hạnh này trích trong Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay trang 33 số 170). 



LƯ HƯƠNG KÝ Bút Kí hay Sấm Kí Trạng Trình ?
Bụt Sĩ LƯU VĂN VỊNH
Theo tư liệu khả tín, Trạng Trình đã cho làm một lư hương bằng gốm mầu gan gà pha mận chín, đặt vào bàn thờ ngoại tổ họ NHỮ ở làng Yên Tử Hạ, Tiên Lãng, Hải Phòng. Lư hương đã bị vỡ thời 1950, một mảnh vỡ có chữ được bảo quản tới năm 1960 cũng đã mất, nhưng bài Lô Hương Kí‎ thì may thay được ghi chép trong gia phả họ Nhữ như sau :
Trí hiếu dĩ phụng tiên
Vị viên nguyên phúc viên
Lại tam tam thế hựu
Lịch số sổ bách niên
Thế bát phùng khuyết biệt
Chu ngũ phục nguyên tuyền
Hữu xương hồ nhân thập
Hữu xí hồ song thiên
Long xà an sở ngộ
Đỉnh xuất tử tôn hiền
Nội ngoại phả nhị chi
Thuỷ chung như nhất phiên
Thời lộ huyền vi chỉ
Xuất bất hoại kỳ yên
Cung lô hương vu tổ
Kiến long vị tại thiên
DỊCH TẠM (1)
Chí hiếu thờ tổ tiên
Phúc chưa tròn sẽ đầy
Ba ba đời nữa(2)
Trải qua mấy trăm năm
Đời thứ tám khuyết biệt
Khoảng 500 năm lại nguyên tuyền
Thịnh vượng thập phương đến
Trọng vọng kính song thân
Thìn Tỵ gặp bình an
Con cháu hiền thảo như chim đĩnh
Nội ngoại hai bên
Thuỷ chung như một
Cơ trời huyền vi chưa thể lộ
Một vài câu không thể dừng
Lư hương dâng tiên tổ
Thấy rồng hiện trên trời.
NGUỒN GỐC bài Lư Hương Kí
Bà mẹ Trạng Trình là Nhữ thị Thục, hiệu Lan Hoa, con gái tiến sĩ Nhữ văn Lan, Thượng thư Bộ Hộ đời Lê Thánh Tông (1460-97), bà tinh thông kinh sử lí số, đoán trước nhà Lê sẽ suy vong 40 năm sau Lê Thánh Tông. Sau bà lấy ông Văn Định, sinh ra Nguyễn Văn Đạt tức Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vì không hài lòng với chồng trong việc dậy dỗ con (bà muốn dậy con thành vua), nên bà bỏ về làng cha mẹ Yên Tử Hạ sống, làng này chỉ cách Trung Am bên kia sông Hàn. Có thể vì người con trai của cụ Nhữ, anh bà Nhữ thị Thục, di lên Cẩm Giàng Hải Dương ( theo lời khuyên của thầy địa lí Tầu), nên bà Thục về trông nom gia trang họ Nhữ chăng ? Chỉ biết khi bà mất, nhà Mạc phong là Từ Thục phu nhân, thì Trạng Trình cho người con thứ 7 là Nguyễn Ngọc Liễn ( con út ) sang Yên Tử Hạ trông coi mồ mả từ đường cố ngoại Nhữ văn Lan và bà ngoại Nhữ thị Thục. Trạng Trình dâng lư hương và viết bài kí dâng nhà thờ họ ngoại này.
Bài Lư Hương Kí, một dấu ấn về khoa lí số Trạng Trình
Ông ngoại đỗ tiến sĩ đời Lê 1463, làm quan to Thượng Thư Bộ Hộ triều Lê, cha ông là Văn Định cũng được phong Thái bảo Nghiêm quận công, còn chính Trạng Trình lại ra thi và làm quan cho nhà Mạc, là triều đoạt ngôi triều Lê. Cho nên với tài lí số Trạng Trình đã từng nói, theo truyền thuyết : sinh Nguyễn tử Giang..nghĩa là sinh thời mang họ Nguyễn, sau khi chết sẽ là họ Giang, là vì con cháu sẽ phải cải tên đổi họ để tránh sự trả thù của phe Lê/Trịnh thắng thế năm 1592 (Trạng Trình mất 7 năm trước, 1585). Quả vậy, người con trưởng của Trạng Trình là Hàn Lâm tên Hầu đã đổi thành họ Giang, hiệu Hàn Giang cư sĩ , vào vùng Trường yên Hoa Lư (Ninh Bình) ẩn dật. Tới nay, dòng họ Giang đích tôn của Trạng Trình đã lập nghiệp được 17 đời ( khoảng 25 năm 1 đời), con cháu lên tới 3000 người. Trong 7 người con của Trạng Trình, chỉ có con cả là văn, 6 người khác đều theo võ nghiệp phò Mạc. Một vị họ Giang nổi danh khác là Thám hoa Giang Văn Minh, làng Đường Lâm, Sơn Tây, rất có thể là dòng họ Nguyễn Bỉnh Khiêm (hàng cháu?) vì ông sinh vào năm 1573, đỗ đầu, Thám hoa vào năm 1628 khi 56 tuổi, đi sứ Tầu năm1638, ông là người đã trả lời câu đối xấc láo của quan Tầu :
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Cột đồng tới nay rêu xanh phủ

bằng câu đáp đầy khí phách :
Đằng giang tự cổ huyết do hồng
Đằng giang từ xưa nước còn máu hồng
Lấy chiến thắng Bạch Đằng đối lại Cột đồng Mã Viện, sứ giả Việt theo truyền thuyết bị Tầu giết và cho mang xác về nước, vua Lê Chúa Trịnh đều tán thán.
Những điều đáng chú í khi đọc những dòng Lư Hương Kí :
1-Tuy là vật dâng cúng bàn thờ, nhưng Trạng đã lưu lại những lời tiên tri cho dòng họ cả trăm năm sau, đời thứ 8 khuyết biệt (200 năm), 500 năm nữa lại trở lại như trước, đúng khả năng tiên tri, ngũ bách niên tiền, ngũ bách niên hậu, hay gần với câu Sấm : Tổ truyền nhị thập ngũ, Cơ đồ ngũ bách niên về một vị thánh xuất Bạch Sỉ, phục hưng Lạc Việt. Nếu lấy khoảng đầu tk 16, là năm nhà Mạc lên (Chấn cung nhật xuất) 1527 thì khoảng 500 năm, hay chu kỳ 60 năm x 8 = 480 năm, thì dòng họ nội ngoại sẽ phục nguyên tuyền, 1527+480= 2007, khoảng đầu tk 21 vậy.
2-Bốn câu cuối bài gói kín một tiên đoán về tương lai xa của nước nhà, khi Cung lư hương lên bàn thờ tiên tổ,thì Trạng thấy Rồng bay trên trời, kiến long vị tại thiên, nghĩa là điềm thái bình, thánh nhân xuất lộ. Vận nhà vận nước đi đôi với nhau, khoảng năm trăm năm sau, nhà phục nguyên vào lúc nước phục nguyên.
3-So với bài sấm ngày Thu Nhâm Dần 1542 đọc cho học trò Trương Thời Cử :
Bốc đắc Càn thuần quái
Sơ cửu thoái tiềm long
Ngã bất thế chi hậu
Binh qua khởi trùng trùng
Ngưu tinh tụ Bảo giang
Đại nhân cư chính cung

Thì thấy thoái tiềm long đối với kiến long tại thiên, trong Lư Hương Kí
Ngã bát thế chi hậu, binh qua trùng trùng, tương ứng với câu Thế bát phùng khuyết biệt,
Ngưu tinh và cư chính cung hợp với kiến long vị tại thiên, là vị trí của bậc đại nhân xuất hiện trên bản đồ thiên thư ngũ phục nguyên tuyền. Câu sấm : Xem í Trời có lòng khải Thánh, lại càng thấy rõ tiên tri Trạng Trình đi từ lẽ biến dịch :
Bác vãng tĩnh quan tri tất Phục
Nhất Dương dĩ nghiệm Địa Lôi trung

Quẻ Bác qua, lặng yên xem Phục đến
Một Dương nghiệm đến giữa Địa Lôi
Mạt pháp mãi cũng có hồi thịnh pháp, Âm thịnh mãi cũng tới lúc Dương phục..đấy là luật vũ trụ, là thiên hạ tâm.
Sấm Trạng Trình nhấn mạnh và xoay quanh Bảo giang, Bảo sơn, sao Ngưu, khảm phương ( Nói cho hay khảm cung rồng dậy..), khảm cung là phương Tây, phương Tây đối với Bạch Vân Am, nơi Trạng ngồi ngắm sao ( Hồng phúc xưa đã định Tây phương…Thác cư một góc kim tinh phương Đoài..) một bài thơ trong Bạch Vân Am thi tập xác định toạ độ :
Hồng nhật đông thăng tri đại hải
Bạch Vân Tây vọng thị thần châu
( trích bài Ngụ Ý)

nghĩa là từ Bạch Vân Am vọng trông về hướng Tây là kinh đô (Thăng Long), cũng là hướng tới Tản Viên và Bảo giang, nơi phát xuất của bậc Thánh quân vương, vào chu kỳ khoảng 500 năm sau nhà Mạc ( Chấn cung xuất nhật, chỉ nhà Mạc từ hướng Đông lên ngôi 1527, rồi sẽ tới lúc Khảm phương rồng dậy, vào chu kỳ này.)
CHÚ THÍCH
1-Không có bản chữ Nho nên chúng tôi tạm dịch theo bản Hán Việt, so với bản dịch trong sách của xã Lí học, huyện Vĩnh Bảo, Hải phòng xb 2005, thì cũng có vài chữ không đồng nhất, như khuyết biệt trong bản Hán Việt lại thành khuyết liệt trong bản dịch. Ở dây chúng tôi để nguyên từ khuyết biệt.
2-Tam tam nếu hiểu là 33 thì rất dài 33 x 25 =825 năm, có lẽ hiểu là 3 lần 3 là 9 thì hợp với câu thế bát (tám đời) hơn, hoặc câu Ngã bát thế chi hậu cũng là 8 đời. Còn hiểu Lại tam tam thế hựu là 33 đời thì phải chăng họ Nhữ kéo dài 33 đời nữa kể từ khi làm bài Lư Hương Kí ?
GÓP NHẶT một số tư liệu liên hệ tới Trạng Trình:
a. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khoảng 160 bài, thơ Hán 1000 bài, nay chỉ còn giữ được khoảng 500 bài. Bài văn tế thầy của học trò Trạng, do Định Thời Trung viết, Trương Thời Cử đọc có thể gọi là một áng văn chương tuyệt tác. Thuở nhỏ Trạng tên Nguyễn Văn Đạt, học với sư chùa Mét tên Trần Ông Sóc, năm 18 tuổi mới vào học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở Thanh Hoá. Khiêm tốn thì Hanh thông, nên lấy tên Khiêm tự Hanh phủ theo nghĩa ấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm đậu Trạng Nguyên khoá III của triều Mạc tại Văn Miếu Mao Điền, Cẩm Giàng Hải Dương gần Cổ Trai (Dương Kinh nhà Mạc), chỉ có khoá I (4000 sĩ tử, 27 tiến sĩ) mới dựng bia ở Văn Miếu Thăng Long, Trạng Trình và 5 danh sĩ khác được thờ chung với Khổng Phu Tử ở Văn Miếu Mao Điền, nay đã được tu tạo khang trang.
b. Trạng từ quan lần đầu năm 1542 (1540 Mạc Đăng Doanh mất, 1541 Mạc Đăng Dung mất) lần hai 1561 khi 70 tuổi, lần ba năm 1564 ngoài 70. Trạng Trình hết lòng phò Mạc mặc dù nhiều nhà Nho hẹp hòi cứ mãi tôn sùng nhà Lê. Chỉ có thể giải thích được qua nhân cách siêu phàm của Trạng Trình : bày thế chiến lược Tam quốc Việt : Mạc xuất thân tại miền Bắc, giữ ngôi miền Bắc, Lê Trịnh giữ từ Nam sông Mã tới Hoành sơn, Nguyễn Hoàng Nam tiến từ Hoành sơn tới Thuận Quảng..Đây là thế tạm ổn, nhà Mạc hoà với Tầu suốt 65 năm sau khi dâng mấy động miền núi tượng trưng, chỉ vì các hủ nho quay ra chống đối Mạc khiến Lê Trịnh thắng thế, mà Lê Trịnh cũng không hơn nhà Mạc chút nào, tới Lê Chiêu Thống thì lại còn hèn hạ xuẩn động hơn nhà Mạc. Chính Trạng Trình đã gửi học trò Phùng Khắc Khoan vào giúp Lê, gửi học trò cùng quê như Nguyễn Đình Thân vào với Nguyễn Hoàng (chưa kể sau này thân tộc Mạc cũng có người chạy vào Nam với chúa Nguyễn). Bắc sông Mã vốn là đất văn hoá Giao Chỉ, trống đồng Hùng vương, đậm đà nét Lạc Việt hơn vùng Nam, vốn gần Lâm Ấp Chiêm Chàm.
c. Trạng Trình từng tham gia quân vụ như một quân sư trong trận đánh quân phe Trịnh ở Tuyên Quang 1554, những trận đánh giữa Mạc và Lê/Trịnh thường xẩy ra ở lằn ranh sông Mã. Năm 1530 khi cựu thần nhà Lê nổi lên thì minh quân Mạc Đăng Doanh đã xử trí bằng cách chia Thanh Hoá làm hai, lấy ranh là sông Mã, có í ‎ nhường đất sống cho phe thân Lê vậy. Năm 1533 thì Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim mới lập chúa Chổm Ninh lên ngôi Lê Trang Tông, vẫn quanh quẩn ở Thanh hoá.
d- Cách đây hơn 200 năm, một ông hủ nho phò Lê từ vùng La Sơn, ra thăm Am Bạch Vân, nhìn cảnh đổ nát rêu phong, đã làm một bài thơ (Qua chùa Mục của Trình Tuyền, 1777) với hai câu rất ngược với chí của Trạng Trình :
Viêm vận tao dương cửu
Gian hùng xuất chấn phương

Vận nước nóng rủi ro
Phương Đông xuất gian hùng
Tới viếng đền “Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ” mà lại gọi vua Mạc là gian hùng thì Nguyễn Thiệp rất khiếm nhã và tiểu nhân, không khác gì bài thơ gọi Thánh Trần bằng bác sau này. Mạc không sánh ngang Lê Thái Tổ, Hồng Đức, nhưng so với vua Chúa Chổm, anh ăn trộm gà Trịnh Kiểm, cõng rắn cắn gà nhà Chiêu Thống hèn hạ, thì vẫn là một triều đại không thua sút, chưa kể Nguyễn Thiếp quên rằng chính Trạng Trình giữ cái ngai tượng trưng cho nhà Lê với lời khuyên Trịnh Kiểm “thờ Phật thì ăn oản”…Phải chờ đến mấy chục năm sau, một danh sĩ đất Gia Lâm, Cao Bá Quát mới làm một bài vịnh xứng đáng :
Hành nhạc tiên nhân khoáng thế sinh
Tài kỳ học bác hữu thuỳ tranh…
Hung thứ bao tàng thiên địa khoát
Tâm cơ vận dụng quỷ thần kinh..

Người tiên núi Hành Nhạc, trần gian dễ mấy ai
Kỳ tài, uyên bác, chẳng có hai..
Lồng ngực bao la trời đất chứa
Tâm cơ vận dụng quỷ thần kinh hãi.
Là vì Cao Chu Thần không phải là loại hủ nho phò Lê, ông cũng không xuất phát từ đất kiêu binh vô lễ, thế nên lòng kính trọng của ông đồng với lòng dân dã, kính và thành thấy rõ. Cũng cần thêm rằng Nguyễn Thiếp là hàng tổ của ông Hoàng Xuân Hãn nên ông thạc sĩ giáo sư trung học này tôn lên là La Sơn phu tử chứ người đương thời không có ai xưng tụng như thế, vả lại chính Nguyễn Thiếp cũng bỏ Lê theo Tây sơn thì còn trung nghĩa nỗi gì, và con cháu ông, Hoàng Xuân Hãn từng làm Bộ Trưởng chính phủ Trần Trọng Kim/Bảo Đại rồi lại quay sang phe khác, thì tưởng không thể sánh với nhân cách Trung nghĩa của nhà Nho chân chính vậy. Hay là tại cái thế đất phản phong thuỷ vùng núi nứt, sông câm ( Đụn sơn phân dái, bò đái thất thanh) tạo ra một lớp chúng sinh với nghiệp dĩ giống nhau ?
( Đã đăng trên tạp chí Khởi Hành 2008 và trên mạng KhoaHọc 2009-LVV)
GHI THÊM :
Có tài liệu lại ghi Lư hương bằng đồng-Xét ra lư hương bằng đồng thì có thể méo hay dẹp chứ không vỡ bể – Bài Ký dâng bàn thờ chủ yếu nói về việc thờ phụng gia tiên, vài câu goí ghém việc nhà việc nước. Tư liệu cuả xã Lý Học, quê hương Trạng khả tín hơn. Vả lại cũng không nên Thần thánh hoá TT biết trước cả việc lư hương vỡ bể ! Sở học của bậc quân sư như Khương Tử Nha, Khổng Minh, Trạng Trình… dùng lý số để đoán đại thế cuộc chứ không phải để tiên tri tiểu sự phàm phu cái lọ bể cái lư vỡ !
Cũng như Sấm ký Nostradamus, sấm Trạng Trình bị người sau thêu dệt và giải thích chủ quan theo ước mơ rất nhiều, mỗi thế hệ, mỗi phe phái đều mong lịch sử xẩy ra theo mơ ước. Vì thế, như cố học giả Hồ Hữu Tường mong mỏi : Canh Tân tàn phá, Tuất Hợi phục sinh..ứng vào thập niên 1980 ! Có vị lại giải hồ binh bát vạn nhập Tràng an là quân VM vào Hà Thành, thật ra 1954 không có 8 vạn quân vào thành, mà ngay lời Sấm cũng rất khả nghi, có thể do chính ông Trần H. Liệu, rất ưa dùng sấm để tuyên truyền (như câu Thái nguyên một giải làm nơi trú đình…hay Nam đàn sinh Thánh…) bày đặt ra, Thánh nhân xuất phương Tây có khi bị hiểu là xuất ở miền tây Nam bộ ( Hoà hảo).. Vài tài liệu chữ Hán cũng không tránh khỏi tam sao thất bản, và cũng có các vị Nho học giải theo chủ quan, như trong bài Lư Hương Ký câu Phúc chưa tròn sẽ đầy lại được giải là chiếc lư hương bằng đồng bị méo sẽ tròn lại ( Hiếu tư dĩ phụng tiên, Vị viên nguyên phúc viên). Trạng Trình khi sinh thời có vài giai thoại đoán tiểu sự như Thiết đoản mộc tràng, nghèo sẽ giầu…( xem VSSLinh ), nhưng chuyện 500 năm sau, có khả năng là Trạng chỉ tiên tri tổng quát thế sự đất nước –Thánh nhân xuất, bá đạo trở về vương đạo- hơn là các tiểu sự như Minh Mạng thập Tứ, thằng Trứ phá đền..do người sau thêu dệt. Chữ Phá điền, lục niên gian…hiện cũng còn rất nhiều giải thích khác nhau, những chữ hay câu chưa rõ rệt, chúng tôi chỉ tồn nghi, ghi lại mà không xác quyết.
( 5-2010 cập nhật)



Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 1
 Sấm Trạng Trình Bạch Vân Thi Tập Chú Giải
Email: vienluutd@yahoo.com
Website: www.bachyhuynhde.org
I. Lời mở đầu
Viễn Lưu và Bạch Sĩ thân chào tái ngộ độc giả. Lần này chúng tôi xin gửi đến quí vị bài viết dài hay tập sách nhỏ mang tên Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải. Tựa đề nghe thật là kêu! Chúng tôi mạo muội lấy đầu đề này chẳng qua là để “câu khách độc giả”. Mong quí vị niệm tình tha thứ. Chúng tôi không hề có ý cao ngạo giảng Sấm Trạng Trình cho quí vị. Chúng tôi chỉ mong trình bày chút sở kiến của mình về Sấm Trạng Trình cho các bạn thưởng lãm.
Mùa xuân năm 2011, nhân duyên đến chúng tôi may mắn nhận được bản soft copy “Bạch Vân Thi Tập” từ văn sĩ Sagiang. Xin nói rõ đây là văn sĩ Sagiang Nguyễn Văn Phận chứ không phải văn sĩ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt. Đã từ lâu chúng tôi rất thích đọc các tài liệu và sách về Sấm Trạng Trình nhưng chúng tôi chưa bao giờ thấy quyển Bạch Vân Thi Tập này. Chúng tôi đã đọc những bài viết về “Long vĩ xà đầu”, “Cửu cửu càn khôn dĩ định” v.v.. nhưng không biết là những câu này nằm trong bài nào, dưới bối cảnh nào. Đây là lần đầu tiên chúng tôi thấy toàn bài “Long vĩ xà đầu” nằm trong tập Sấm Trạng Trình này. Chúng tôi biết đây là một tài liệu rất quí báu.
Lần đầu tiên in ra chúng tôi đọc thoáng qua thì thấy khó hiểu lắm. Không nắm được vấn đề. Sau vì bận nhiều chuyện khác nên rồi bỏ qua một bên. Cách đây khoảng hai tháng có một ông bạn mới quen gần nhà hỏi về sấm Trạng Trình, chúng tôi mới in cho ông ta một bản. Tối hôm trước khi đem qua cho ông ta, chúng tôi mới cẩn thận đọc lại toàn bài và tự nhiên chúng tôi nhận ra nhiều điểm mới lạ về khúc “Long vĩ xà đầu” và “Cửu cửu càn khôn dĩ định”. Sau đó chúng tôi mới nói chuyện với văn sĩ Sagiang và xin được có một buổi gặp mặt để bàn về tập “Bạch Vân Thi Tập”. Lý do là chúng tôi thuộc thế hệ trẻ, không biết chữ Hán. Thứ nữa, tập sách đã được viết lại bằng mẫu tự quốc ngữ (Latin) nên không thể tra tự điển Hán Việt được. Và cuối cùng văn sĩ Sagiang vốn chuyên là giáo sư Sử Địa ngày xưa nên đã chỉ rõ cho chúng tôi về phần lịch sử nước VN nằm trong phần một của Bạch Vân Thi Tập. Đó là một chìa khóa quan trọng cho chúng tôi trong việc giải mã tập Sấm Ký này. Sau đó chúng tôi về nghiền ngẫm và thấy mọi chuyện càng thêm sáng tỏ. Hôm nay chúng tôi mới mạo muội viết lại những gì mình thấy và xin cống hiến cho các bạn thưởng thức.
Nếu lời giải thích của chúng tôi có “dở quá” thì mong quí vị thông cảm tha thứ. Để đền bù lại, chúng tôi xin tặng các bạn nguyên bản Bạch Vân Thi Tập ở cuối bài để tha hồ xử dụng làm tài liệu.
Chúng tôi xin thành thật cám ơn văn sĩ Sagiang đã ra công sức đánh máy lại tập Bạch Vân Thi Tập để phổ biến cho mọi người và cám ơn sự giúp đỡ tận tình giải thích cho chúng tôi ý nghĩa từng câu thơ, từ ngữ bằng chữ Hán trong tập. Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 2
Để đáp ứng nhu cầu của mọi độc giả, chúng tôi biết là vấn đề chú giải nguyên tập sấm ký Bạch Vân Thi Tập dài 487 câu sẽ rất phức tạp dài dòng. Độc giả thì có nhiều loại. Có độc giả chỉ muốn biết Cụ Trạng muốn nói cái gì chứ không cần biết từng câu từng nghĩa ra sao, hoặc là tại sao người chú giải lại giải như thế v.v. Do đó chúng tôi xin viết phần Sấm Trạng Trình – Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Giản Lược để đáp ứng các vị độc giả này và phần Sấm Trạng Trình – Bạch Vân Thi Tập Chú Giải (chi tiết) thì dành cho các vị nào muốn tìm hiểu thêm chi tiết.
O-O-O
Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Giản Lược.
Sấm Ký Bạch Vân Thi Tập của Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết vào năm Nhâm Tí, 1552. Dài 487 câu chia làm hai tập. Tập một có 280 câu mô tả lịch sử nước Việt Nam kể từ thời mới bắt đầu lập quốc từ thời Lạc Long Quân trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn, qua thời Cộng Sản và kết thúc bằng lúc nước Nam được tái lập và thái bình. Nhưng trước khi tới giai đoạn Thái Bình hậu Cộng Sản, thì sẽ có một cuộc thế chiến lớn và sẽ có vị Minh Vương Bảo Giang xuất hiện để giúp lập nước Liên Bang Đại Việt.
Tập hai có 207 câu nói về thời điểm, chi tiết bài “Long Vĩ Xà Đầu Khởi Chiến Tranh” nổi tiếng và nói về hai vị Minh Vương Bảo Giang và Bảo Sơn trong thời điểm lập quốc vào 2015. Bây giờ chúng tôi xin bàn trước về cuộc chiến tranh “Long Vĩ Xà Đầu”
Sau đây là toàn bài Long Vĩ Xà Đầu
395 - Canh niên tân phá
396 - Tuất hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư bình
398 - Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
402 - Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cản tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 - Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu
410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 - Trực đáo dương đầu mã vĩ
413 - Hồ binh bát vạn nhập trường an
Xin tóm tắt như sau “
Câu 395-397: Thời gian 10 năm từ Canh Dần 2010 đến Kỷ Hợi 2019 là giai đoạn hỗn loạn của Hạ Ngươn Ba Kiếp Diệt và đầu Thượng Ngươn Bốn thái bình. Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 3
Câu 398-401: Cuối năm Nhâm Thìn 2012 đầu năm Quí Tỵ 2013 chiến tranh tại VN bắt đầu khởi dậy. Đây là cuộc thánh chiến từ mọi xứ trên thế giới khởi đầu từ khối Hồi Giáo (Can Qua là tiếng phiên âm tàu của chữ Koran). Vào cuối năm ngọ đầu năm mùi 2015, bom nguyên tử nổ mọi động và thực vật (Anh Hùng) đều bị tiêu diệt. Sau đó ra năm Thân, Dậu tức 2016, 2017 mở đầu Thượng Ngươn Thánh Đức Kỳ Bốn mới có thái bình.
Câu (402-409): nói về chi tiết của cuộc thế chiến ba. Đủ 2 cặp dần-thân tỵ-hợi tứ hành xung. Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam (tỵ-hợi) mặc sự phản đối của quốc tế và sự phản kháng của Việt Nam. Cuối cùng Mỹ vào cuộc đánh Trung Cộng (dần-thân) giúp lấy lại Việt Nam. Hai siêu cường choảng nhau dắt mọi nước vào trận thế chiến, rồi vũ khí nguyên tử được đem ra sử dụng đưa thế giới vào cơ tận diệt. Trong lúc đó, miền Nam được tái lập và Việt Kiều hải ngoại sẽ về nước khoảng 2015 một cách thong thả!
Câu (410-413): Bốn câu này tiên đoán “vào mùa xuân năm Ất Mùi 2015, 18 nước mà trời đã định sẽ gặp nhau tại “Trường An” tức thủ đô của nước Đại Việt mới trong cuộc họp lịch sử ở Bảo Giang hay Long Giang mà sau đó “Bảo Giang thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành”. Điều này cũng hàm nghĩa kẻ xâm lăng Trung Cộng sẽ bại trận thê thảm!
Giờ đây chúng tôi xin tóm tắt về hai vị Minh Vương: Bảo Giang và Bảo Sơn.
Minh Vương Bảo Giang
414 - Bảo Giang thiên tử xuất
415 - Bất chiến tự nhiên thành
416 - Lê dân bảo bảo noản
417 - Tứ hải lạc âu ca
Bốn câu này có nghĩa “Tại cuộc họp lịch sử ở Bảo Giang hay Long Giang, Minh Vương Bảo Giang sẽ xuất hiện và quốc gia Đại Việt mới sẽ được chính thức thành hình. Dân chúng sung sướng bảo vệ đất nước mới thành lập này. Khắp bốn phương Việt kiều tha hương đồng reo hò ca ngợi”
418 - Dục đức thánh nhân hương
419 - Quá kiều cư bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch sinh ngưu lang
422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân
Đoạn này có nghĩa “ vị Minh Vương nhân đức này có gốc gác là người Bắc thuộc dòng họ Nguyễn, cầm tinh con dê, tân mùi. Là một đại trượng phu đầy nhân nghĩa nhưng cũng sẵn sàng tàn nhẫn nếu cần thiết! Là một người đã lớn tuổi ngoài 70 và có chức phận võ tướng rất hiển hách (Bạch hổ kim đái ấn)”. (Trong huyền linh học, người này chính là vua Quang Trung thuở xưa nay sanh lại để giúp nước Nam lập quốc. Xin chú ý là vua Quang Trung còn được biết dưới danh hiệu là “Bạch Hổ Kim Tinh Phương Đoài” vì tương truyền lá số tử vi của vua Quang Trung là Nhâm Thân Kim mệnh đóng tại cung Thân có sao Thất Sát tọa thủ ) Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 4
Minh Vương Bảo Sơn
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành
446 - Thủy trung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 - Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương
450 - Danh vi nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại ngưu lang
Tại núi Bảo Sơn, vị Minh Vương trẻ tuổi này sẽ xuất hiện và cùng với Minh Vương Bảo Giang trị quốc an dân. Minh Vương Bảo Sơn này có tài về ăn nói. Danh tiếng ít người sánh kịp. Cũng là gốc họ Nguyễn, cầm tinh con Trâu hay Sửu.
Chúng ta cũng thường nghe câu “Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về”. Câu này là để chỉ vị Minh Vương Bảo Sơn này. Khi xưa chính là Vua Hàm Nghi bị đi đày. Sau khi chết hồn về núi Cấm tu hành chờ đúng ngày giờ sẽ tái xuất và mượn một xác trẻ tuổi có mạng Sửu. Trong huyền linh học, trong tiền kiếp, vua Hàm Nghi chính là vua Lê Lợi khi xưa và sẽ là Minh Vương Bảo Sơn kỳ này.
Chúng tôi xin trích một vài câu trong bài bút điển nhận được hôm Rằm Tháng Bảy Vu Lan năm 2011 dể dẫn chứng trong huyền linh học 2 vị Minh Vương Bảo Giang và Bảo Sơn chính là vua Quang Trung và Lê Lợi năm xưa.
Vào năm Tỵ mùa thu đỏ máu (2013) Đức Minh Hoàng mới đáo ta bà Mệnh danh tướng “X” đó mà Quang Trung Nguyễn Huệ ấy mà từ bi (148) Lên ngôi vua trị vì sanh chúng Hội khắp nơi trí dũng trở về Giúp vua Lê Lợi cận kề Hai vua anh dũng trọn thề bên dân (152)
Hai Minh Vương Bảo Giang Bảo Sơn hay Quang Trung Lê Lợi cùng nhau trị nước an dân. Mở đầu với việc cải cách an sinh xã hội mở mang đất nước (452-453). Về mặt an ninh trật tự, ba thành phần du đãng, trộm cướp, hiếp đáp và tham nhũng tư bản đỏ sẽ bị trừng phạt nặng nề (454-456). Tôn giáo tâm linh sẽ được coi trọng đưa lên hàng đầu trong nước (457). Nước nhà sẽ nhận được nhiều viện trợ tài chánh từ quốc tế hay Mỹ (458-459). Chính sách thì dùng nhân nghĩa đối đãi với kẻ địch. Do đó đạo đức được xem trọng đề cao. Chính sách hay đẹp này gồm có 25 điều được truyền ra khắp năm châu (462-463).
Đoạn kết của Bạch Vân Thi Tập:
472 - Kiền khôn phú tải vô lương
473 - Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
476 - Ta hồ vô phụ vô quân Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 5
477 - Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
478 - Ðoài phương phước địa giáng linh
479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 - Phá điền thiên tử giáng trần
481 - Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm
482 - Trần công nải thị phúc tâm
483 - Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
484 - Tướng thần hệ xuất y chu
485 - Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
486 - Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487 - Ðông tây vô sứ Nam thành quốc gia
Cụ Trạng lập lại chuyện thế chiến 3, Long Vĩ Xà Đầu và chuyện nước Nam lập quốc thái bình. Đoạn này nói “Trời sẽ không tha bọn gian ác. Từ thiên đình phát lệnh, bầy dê hạ giới bắt đầu tranh hùng (472-473). Mười năm trời tranh hùng (2010-2019). Từ đảo Hoàn Sơn tức Trường Sa/Hoàng Sa là nơi tranh chấp, các quốc gia đánh nhau loạn xạ, nhân thế tán loạn (474-477). Từ tây phương nơi đất nước giàu có nhiều phước đức (Mỹ) trời sanh xuống vị Thiên Tử văn võ song toàn dẹp tan thế chiến này (478-481) (Có thể là Tổng Thống Obama, xin xem phần bàn thêm bên dưới). Minh Vương Việt Nam thì thích dùng nhân tâm. Do vậy bọn triều thần thứ dữ loại võ biền từ từ bỏ đi hết. Các võ tướng rồi cũng phải giải nghệ hay đổi qua văn quan. Minh Vương sẽ trị nước giống như thời vua Nghiêu Thuấn thuở xưa. Bấy giờ nhà Nam được tiếng thái bình. Trong lúc thế giới chẳng còn mấy quốc gia thì nước Nam lại được lập quốc trở thành Liên Bang Đại Việt vào thời Thượng Ngươn 2017 trở đi (482-487)”.
Ngoài hai việc chính nói về Thế Chiến Ba năm 2013 và Minh Vương Bảo Giang, Bảo Sơn, Cụ còn khuyên các trang sĩ tử phải lo trau dồi tài nghệ văn võ cho uyên thâm, chờ cho đúng thời thế tức là lúc lập quốc lần này 2013, rồi đem tài ra phò minh chúa lập quốc.
Đấy là sơ lược tập Bạch Vân Thi Tập của Cụ Trạng Trình. Tuy nhiên còn nhiều chi tiết thú vị chúng tôi không kể ở đây vì sợ rườm rà. Những chuyện như làm sao để nhận diện được Minh Vương? Cụ Trạng có trở lại VN chưa? Và vai trò của Cụ Trạng với quốc độ Đại Nam trong tương lai như thế nào? Cụ Trạng đã tiên đoán về Tổng Thống Obama 500 năm trước? v.v. Xin mời đọc tiếp.
O-O-O

II. Xuất xứ bản “Bạch Vân Thi Tập”
Theo lời văn sĩ Sagiang thì vào khoảng năm 1972, lúc bấy giờ đang là giáo sư Sử Địa ở Sa Đéc, thì một hôm có một học trò trung học đem đến tập “Bạch Vân Thi Tập” bằng Nôm/Hán tự và nói rằng “con mang đến cho thầy vì con không biết đọc chữ Hán”. Ông SaGiang nhờ thông thạo cả Nôm lẫn Hán tự nên đã dịch ra chữ quốc ngữ và sau đó học thuộc lòng. Sau biến cố 1975, bị tù đày Cộng Sản, và cuối cùng vượt biên đến được Mỹ năm 1990. Kho tài liệu 6 tủ sách bên nhà đã được gia đình đem cân ký bán hết trong lúc bị ngồi tù chánh trị 4 năm. Qua Mỹ, ông đã khổ Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 6
công viết lại từ trong ký ức nhưng không được đầy đủ. May thay vào năm 2008, người học trò cũ này liên lạc được thầy Phận tức văn sĩ Sagiang và gửi lại cho thầy mình bản sao mà anh này còn giữ được từ năm xưa. Nhờ đó chúng ta mới có dịp đọc được tập sấm ký Bạch Vân Thi Tập của Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày hôm nay. Thật là quí báu thay!
Chúng tôi có nghe đồn là nhà Nguyễn khi xưa và chính cả Cộng Sản Bắc Việt cũng sửa, ngay cả bịa đặt sấm Trạng Trình để có lợi cho phe mình tương tự như chuyện Hitler sửa sấm của Nostradamus bên Âu Châu trong thế chiến hai. Tôi có bàn chuyện này với ông Sagiang. Nhưng vì nay không còn bản chánh chữ Hán và đã quá lâu nên không thể nào biết được hư thực ra sao. Do đó, khi chúng ta đọc sấm thì nên để ý đến sự liên tục mạch lạc từ ý tứ đến lời văn để dễ bề nhận diện sự bịa đặt.
Vì thế nếu có vị cao minh nào khám phá ra những điều sai lầm trong tập thì xin chỉ bảo dùm cho. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ.
III. Tóm Lược nội dung Bạch Vân Thi Tập
Bản Bạch Vân Thi Tập của Cụ Trạng ở đây có 487 câu chia làm 2 bài. Bài một có 280 câu và bài hai dài 207 câu. Cụ dùng các thể thơ sau đây: lục bát, song thất lục bát, thất ngôn, ngũ ngôn và tứ ngôn cho chỗ cần nhấn mạnh như sau:
395 - Canh niên tân phá
396 - Tuất hợi phục sinh
397 - Nhị ngũ dư bình
398 - Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
Nội Dung Bài Một (280 câu):
Bài một tả lịch sử nước Việt Nam từ thời lập quốc Lạc Long Quân luôn luôn loạn lạc vì nội chiến hay lệ thuộc Bắc Phương qua các triều đại, tới thời kỳ Pháp thuộc, đến giai đoạn Cộng Sản cầm quyền và kết thúc vào lúc nước nhà thật sự thanh bình, trở thành một cường quốc mà khắp nơi đều thần phục!
- Lời mở đầu: 4 câu: 1-4.
- Khởi tổ Lạc Long Quân dựng nước được 4 câu: 5-8.
- Nhà Đinh và Tiền Lê (3 đời) được 3 câu: 11-13.
- Nhà Lý có 8 đời vua đến Lý Chiêu Hoàng thì mất vào tay nhà Trần được 4 câu: 13-16.
- Nhà Trần được 28 câu: 17-44.
- Nhà Hồ và nhà Minh bên Tàu sang chiếm nước ta được 10 câu: 45-54
- Nhà Hậu Trần (Nhà Lê) + nhà Mạc được 22 câu: 55-76
- Thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh được 38 câu: 77-114.
- Lúc này dân tình rất khổ sở, thời thế loạn lạc quá, Cụ mới mách cho lúc mà đất nước thanh bình, mọi xứ đều qui phục nước nhà, vận ấy bắt đầu từ con Rồng Nước và 60 tháng gian nan hay “năm năm sáu tháng cơ hàn”, được 10 câu: 115-124
- Nhà Tây Sơn anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ được 64 câu: 125-188.
- Nhà Nguyễn Gia Long và thời kỳ Pháp Thuộc được 22 câu: 189-210.
- Thời đảng Cộng Sản được 22 câu: 211-222.
- Thế chiến ba (vì đảng CS lên sau thế chiến hai) được 8 câu: 223-230.
- Năm mươi câu còn lại để tả vị Minh Vương sẽ lên ngôi như nhà Lý khi xưa là không đánh, không dành mà được tôn lên. Thời điểm lúc bấy giờ sẽ là lúc mà Bắc Kinh Trung Quốc là bá chủ thế giới (về kinh tế như hiện nay?) được 50 câu: 231-280.
Nội Dung Bài Hai (207 câu):
Bài hai dài 207 câu nhưng nội dung thì khác hẳn bài một. Trong bài này Cụ Trạng dành phần lớn giấy mực để nói về trận thế chiến Long Vĩ Xà Đầu sắp tới và nói nhiều về hai vị Minh Vương Bảo Giang và Bảo Sơn sẽ lập lại quốc gia Đại Việt trong thời Thượng Ngươn 2017. Tạm chia thành các phần sau:
Mở đầu: 10 câu: 281-290. Vừa vô bài là Cụ đặt ngay mốc thời gian năm Nhâm Tí tức năm 1552 lúc Cụ được 61 tuổi được.
281 - Vừa năm nhâm tý xuân đầu
282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Phần 2: 36 câu: 291-326. Trong đoạn này Cụ than rằng đã sinh không đúng thời. Gặp lúc thời quỉ ma, bội chúa hôn quân. Cụ khuyên các anh hùng sĩ tử phải chờ cho đúng thời, tìm cho được thánh chúa rồi thì mới nên ra sức lập công xưng đời.
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 - Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
Phần 3: 44 câu: 327-370: đoạn này giới thiệu thời thánh nhân ra đời.
327 - Chờ cho động đất chuyển trời
328 - Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
. . . .
333 - Trời cao đất rộng bao xa
334 - Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335 - Dù trai ai chửa biết tường
336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 - Ý ra lục thất gian nay
338 - Thời vận đã định thời nầy hưng vương
339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 - Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Phần 4: 20 câu: 371-390: Cụ báo hiệu ngày giờ thánh nhân xuất hiện và bắt đầu tả gốc gác các vị thiên tử hay minh chúa.
371 - Ðến đời thịnh vượng còn lâu
372 - Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 - Khuyên cho đông bắc nam tây
374 - Muốn làm tướng suý thì xem trông này
375 - Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 8
377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 - Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
389 - Nhà cha cửa đóng then cài
390 - Giờ mầm sấm động hỏi người đông lân
Phần 5: 22 câu: 391-413. Đoạn này là đoạn quan trọng. Cụ nói chi tiết về cuộc thế chiến sắp đến và những gì sẽ xảy đến cho nước nhà trong thời điểm Thánh Nhân xuất hiện. Đây là chỗ những câu sấm nổi tiếng như bài Long Vĩ Xà Đầu xuất hiện.
395 - Canh niên tân phá
396 - Tuất hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư bình
398 - Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
Phần 6: 58 câu: 414-471: Đoạn này tả hai vị Minh Vương Bảo Giang và Bảo Sơn. Thân thế xuất xứ và sự nghiệp cải cách xã hội của 2 vị Minh Vương này. Khúc này thì thể thơ hoàn toàn là ngũ ngôn và dùng rất nhiều Hán Tự.
414 - Bảo Giang thiên tử xuất
415 - Bất chiến tự nhiên thành
. . . .
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành
Phần chót: 16 câu: 472-487: Cụ kết thúc bài bằng cách lập lại trận thư hùng thế giới Long Vĩ Xà Đầu, tranh chấp tại Đảo Hoàn Sơn (Trường Sa và Hoàng Sa) trong 10 năm. Từ phương tây, Thiên Tử (tổng thống Obama của Mỹ) giáng trần dẹp tan loạn lạc thế giới và Minh Vương Bảo Giang trở về bình an đất nước và kết thúc bằng câu “Đông Tây Vô Sứ Nam Thành Quốc Gia” nghĩa là khi thế giới chẳng còn lại bao nhiêu nước thì nhà Nam sẽ dựng nghiệp quốc gia.
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
. . . .
486 - Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487 - Ðông tây vô sứ Nam thành quốc gia
IV: Cụ Trạng Trình muốn nhấn mạnh điểm gì trong Bạch Vân Thi Tập?
Thông thường trong một câu chuyện dài có nhiều tiểu khúc. Tác giả có nhiều cách để nhấn mạnh đến những tiểu khúc mình muốn nói. Cách thông thường là những đoạn đó được viết dài hơn hoặc là thể văn được thay đổi.
Khi chúng tôi dùng cách này để phân tách “Bạch Vân Thi Tập” thì được kết quả như sau: Sấm Trạng Trình - Bạch Vân Thi Tập Chú Giải Viễn Lưu/Bạch Sĩ 9 Phần

Số Câu
Số thứ tự
Thể Thơ
Mở đầu bài 1
4
1-4
Lục bát
Lạc Long Quân khởi tổ
4
5-8
Song thất lục bát
Nhà Đinh + Tiền Lê
4
9-12
Song thất lục bát
Nhà Lý
4
13-16
Song thất lục bát
Nhà Trần
28
17-44
Song thất lục bát
Nhà Hồ + Minh bên Tàu
10
45-54
Song thất lục bát
Nhà Lê + Nhà Mạc
22
55-76
Song thất lục bát
Trịnh Nguyễn phân tranh
38
77-114
Song thất lục bát
Vận Nước lúc THÁI BÌNH
10
115-124
Song thất lục bát
Nhà Tây Sơn (vua QT 14 câu)
64
125-188
Song thất lục bát
Nhà Nguyễn + Pháp Thuộc
22
189-210
Song thất lục bát
Thời đảng Cộng Sản
22
211-222
Song thất lục bát
Thế Chiến 3
8
223-230
Lục bát
Tả vị Minh Vương
50
231-280
Song thất lục bát
Mở đầu bài 2, Nhâm Tí
10
281-290
Lục bát
Đoạn 2: Sinh bất phùng thời
36
291-326
Lục bát
Đoạn 3: Minh Vương ra đời
44
327-370
Lục bát
Đoạn 4: Ngày giờ MV xuất hiện
20
371-390
Song thất lục bát
Đoạn 5: Long Vĩ Xà Đầu
22
391-413
Thất & tứ ngôn, lục bát
Đoạn 6: Hai vị Minh Vương
58
414-471
Ngũ ngôn
Đoạn Kết
16
471-487
Lục bát


Giải «Bộ Hư Đại Sư dự ngôn thi»

“Thế vũ tam phân, Hữu Thánh nhân xuất, Huyền sắc kỳ quan, Long trương kỳ phục, Thiên địa phục minh, Xử trị vạn vật, Tứ hải âu ca, Ấm thụ kỳ phúc”.
Giới thiệu: «Bộ Hư Đại Sư dự ngôn thi» do một vị cư sĩ Phật gia sống vào những năm Quang Tự triều Thanh vô tình tìm được tại chùa Sơn Bích ở Tây Sơn, Bắc Kinh. Tương truyền Bộ Hư nguyên là một Đại tướng triều Tùy, sau khi chứng kiến cảnh hủ bại loạn ly thời Tùy mạt đã xuất gia lánh nạn tại núi Thiên Đài. Dự ngôn này đối với ước chừng một thế kỷ thời cận đại đã giảng hết sức tỉ mỉ, kết thúc bằng một đoạn miêu tả thời thái bình thịnh thế, nhưng ngôn ngữ mơ hồ khó hiểu.
“Trăm năm đại sự hồn như mộng, Nam Triều phấn vàng thái bình xuân”, chỉ năm 1912 triều Thanh vong, 100 năm sau vào mùa Xuân thiên hạ thái bình, giống “Số điểm hoa mai trời đất xuân” trong «Mai Hoa Thi» (Ảnh: Vương Gia Ích/Đại Kỷ Nguyên)
*  *  *
Sau đây là phần giải nghĩa:
— Đoạn thứ nhất —
Vân ám ám, vụ sầu sầu,
Long quy nê thổ tố mi hầu.
Tam tuế hài đồng tam tái phúc,
Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu,
Vạn lý yên ba nhất đán thu.
Tạm dịch:
Mây u ám, sương ưu sầu.
Rồng về đất thổ nặn khỉ hầu.
Đứa trẻ ba tuổi ba năm phúc,
Trăng dưới không chủ nước không trôi,
Khói sóng vạn dặm một ngày thu.
Giải: “Mây u ám” chỉ không có ánh quang, “sương ưu sầu” chỉ “sầu tự” (u sầu). “Thổ hầu” là Mậu Thân, chỉ Hoàng đế Quang Tự mất năm 1908 Mậu Thân, Tuyên Thống 3 tuổi làm Hoàng đế được 3 năm. “Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu”, ba điểm bộ Thủy (氵) cộng thêm “nguyệt” (月) rồi thêm “chủ” (主) hợp thành chữ “Thanh” (清), chỉ triều Thanh diệt vong (“nước không trôi”). “Nhất đán” ám chỉ nguyên đán năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc thành lập.
— Đoạn thứ hai —
Quân tố tổ, chất bân bân,
Vạn lý trường hồng phá lãng chinh.
Hoàng Hạc Lâu trung xuy ngọc địch,
Bát phương tề xướng khải ca ngâm,
Tinh kỳ ngũ sắc hoán tân tân.
Tạm dịch:
Vua làm tổ, chất nho nhã,
Cầu vồng vạn dặm phá sóng chinh.
Giữa Hoàng Hạc Lâu thổi sáo ngọc,
Tám phương cùng hát khúc khải hoàn,
Cờ quạt ngũ sắc đổi mới mới.
Giải: “Vua làm tổ” là chữ “Tôn” (孙), “chất nho nhã” là chữ “Văn” (文), chỉ Tôn Trung Sơn tổ chức khởi nghĩa Vũ Xương, sáng lập Trung Hoa Dân Quốc, lúc đầu lấy cờ ngũ sắc, đỏ vàng lam trắng đen, làm quốc kỳ.
— Đoạn thứ ba —
Cát sĩ hoài nhu, tam thập niên biến,
Khởi phàm nhân tai, đàm hoa nhất hiện.
Nam Bắc Đông Tây, long tranh hổ chiến,
Thất bát số định, sơn xuyên thô điện.
Tạm dịch:
Kẻ may dụ dỗ, ba thập niên biến,
Há phàm nhân ư, sớm nở tối tàn.
Nam Bắc Đông Tây, long tranh hổ đấu,
Bảy tám số định, núi sông sơ đặt.
Giải: “Cát sĩ hoài nhu” (吉士怀柔) ám chỉ chữ Viên (袁); “tam thập niên biến”, tam thập niên là một thời đại, ám chỉ chữ “Thế” (世); “khởi phàm” (岂凡) hợp lại thành một chữ “Khải” (凯). Chỉ Viên Thế Khải làm Hoàng đế trong 100 ngày. “Nam Bắc Đông Tây, long tranh hổ đấu” chỉ cục diện quân phiệt hỗn chiến vào thời kỳ đầu Dân Quốc. 15 năm sau (=7+8), năm 1926, quân Quốc Dân Bắc phạt, sơ bộ thống nhất Trung Quốc.
— Đoạn thứ tư —
Can qua khởi, trục lộc mang,
Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn.
Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ,
Phong vân tụ hội đáo Giang Nam,
Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang.
Tạm dịch:
Khởi can qua, bận giành giật,
Anh hùng cỏ hoang sắp xuống núi.
Bao nhiêu giáo mác kẻ hào kiệt,
Mây gió tụ hội đến Giang Nam,
Kim Lăng nhật nguyệt thấy ánh quang.
Giải: Chữ “thảo” (草) thêm chữ “tương” (将) thành chữ Tưởng (蒋), chỉ Tưởng Giới Thạch giành giật Trung Nguyên, thống nhất Trung Quốc. Mấy câu sau ý nói tụ hợp tại Nam Kinh, thành lập chính phủ Quốc Dân, thế nước hưng thịnh.
— Đoạn thứ năm —
Doanh Châu hổ, độ hải lang,
Mãn thiên hồng nhật cánh hôn hoàng.
Mang mang Thần Châu thương phá toái,
Thương sinh xứ xứ khốc gia nương,
Xuân lôi sạ hưởng kiến tình dương.
Tạm dịch:
Hổ Doanh Châu, chở sói biển,
Khắp trời hồng nhật thêm ảm đạm.
Mênh mang Thần Châu thương nát tan,
Trăm họ nơi nơi thương khóc mẹ,
Sấm xuân đột vang thấy trời quang.
Giải: “Hổ Doanh Châu, chở sói biển” chỉ Nhật Bản xâm Hoa. “Sấm xuân” chỉ bom nguyên tử, bom nguyên tử nổ là Nhật Bản đầu hàng.
— Đoạn thứ sáu —
Tế Liễu doanh trung, quần hùng hào ẩm.
Nguyệt yểm Trung Thu, hàm thụy vị tỉnh.
Song sư bác cầu, nhất trụy kỳ tỉnh.
Hồng phấn giai nhân, diện diễm anh cảnh.
Tạm dịch:
Giữa doanh Tế Liễu, quần hùng hả hê.
Trung Thu lấp trăng, ngủ ngon chưa tỉnh.
Đôi sư vồ cầu, một rớt xuống giếng.
Giai nhân phấn hồng, anh đào kiều diễm.
Giải: “Doanh Tế Liễu” ở vùng phụ cận Tây An, “đôi sư vồ cầu” chỉ hai phe Quốc-cộng cùng nhau viết bài “kháng Nhật”, “cầu” chỉ Nhật Bản. Trương Học Lương, Dương Hổ Thành phát động binh biến, Tưởng Giới Thạch rơi vào bẫy của Trung Cộng, Tống Mỹ Linh đứng ra giải cứu.
— Đoạn thứ bảy —
Xuân lôi tạc, thụ bạch kỳ,
Thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề.
Thạch đầu thành trung phi phù đáo,
Tái khán trọng chỉnh Hán cung nghi,
Đông sơn hựu hữu hỏa quang chiếu.
Tạm dịch:
Sấm xuân nổ, dựng bạch kỳ,
Nghìn vạn quỷ sống khóc dầm dề.
Trong tòa thành đá bùa bay đến,
Lại thấy vào đúng đồ Hán cung,
Núi Đông lại có ánh lửa chiếu.
Giải: Nước Mỹ thả bom nguyên tử, Nhật Bản đầu hàng, tin mừng thắng lợi truyền đến Nam Kinh, chính phủ Quốc Dân mở tiệc chỉnh trang non sông, nhưng ngày đẹp không lâu, Mao Trạch Đông lại phát động nội chiến.
— Đoạn thứ tám —
Nhật nguyệt thực, ngũ tinh hi,
Nhị thất giao gia quải thái y.
Dã nhân cử túc bách kim hổ,
Biến địa hồng hoa biến địa cơ,
Phú quý bần tiện vô cao đê.
Tạm dịch:
Nhật nguyệt mòn, ngũ tinh thưa,
Hai bảy đan xen áo bị thương.
Người hoang giơ chân bức hổ vàng,
Khắp nơi hoa đỏ khắp nơi đói,
Phú quý bần tiện không cao thấp.
Giải: “Hai bảy đan xen”, chữ “nhị” (二) đan với chữ “thất” (七) chính là chữ “Mao” (毛). Chỉ Mao Trạch Đông mặc áo đỏ máu, tổ chức hoạt động khủng bố, cả nước cắm cờ đỏ, làm đấu tố, đâu đâu cũng là mất mùa.
— Đoạn thứ chín —
Nhị thất tung hoành, nhất ngưu song vĩ,
Vô phục nhân hình, nhật hành hằng quỹ.
Hải thượng kim miết, huyền phục luật lữ,
Thiết điểu lăng không, Đông Nam tận hủy.
Tạm dịch:
Hai bảy tung hoành, một trâu hai đuôi,
Không lại hình người, ngày đi đường mãi.
Ba ba vàng biển, áo đen luật lữ,
Chim sắt vút trời, Đông Nam hủy sạch.
Giải: “Nhị thất tung hoành” vẫn là chữ “Mao” (毛), “nhất ngưu song vĩ”, chữ “ngưu” (牛) thêm hai đuôi chính là chữ “Chu” (朱), chỉ Mao Trạch Đông và Chu Đức thường xuyên không làm việc của người. “Ba ba vàng biển” chỉ Đài Loan kinh tế phát đạt, nhân dân giàu có, “áo đen luật lữ” chỉ kế thừa Hán phục, Hán khúc, tức văn hóa truyền thống Trung Hoa. “Chim sắt vút trời, Đông Nam hủy sạch” chỉ phi cơ chỉ có thể bay vào Đại Lục rải truyền đơn, đất Giang Nam bị Trung Cộng phá hủy.
— Đoạn thứ mười —
Hồng hà úy, bạch vân chưng,
Lạc hoa lưu thủy lưỡng vô tình.
Tứ hải thủy trung giai xích sắc,
Bạch cốt như khâu mãn cương lăng,
Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng.
Tạm dịch:
Mây đỏ sáng, mây trắng bốc,
Nước chảy hoa trôi sao vô tình.
Bốn biển trong nước đều sắc đỏ,
Xương trắng như gò khắp mộ đồi,
Vừa lúc Thỏ Ngọc chạy lên Đông.
Giải: “Mây đỏ sáng, mây trắng bốc” chỉ Trung Cộng lan tràn, Dân Quốc rút về Đài Loan. Chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới giết người như ma. “Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng” chỉ năm Thỏ 1951, Đại sư Lý Hồng Chí đến thế gian, quảng truyền Đại Pháp vũ trụ. “Tương tương”, lấy “Mộc” (木) ở chữ “tương” (相) ghép với “Tử” (子) ở chữ “tương” (将) được chữ “Lý” (李), chỉ họ Lý.
— Đoạn thứ mười một —
Cái quan định, Công tội phân,
Mang mang hải vũ kiến thừa bình.
Bách niên đại sự hồn như mộng,
Nam Triều kim phấn thái bình xuân,
Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh.
Tạm dịch:
Nắp hòm đậy, công tội phân,
Biển nhà mênh mông thấy thái bình.
Trăm năm đại sự hồn như mộng,
Nam Triều phấn vàng thái bình xuân,
Non sông vạn dặm xứ xứ thanh.
Giải: “Nắp hòm đậy, công tội phân”, chỉ ngày thẩm phán đối với những người theo Trung Cộng. “Biển nhà mênh mông thấy thái bình” giống “Quét sạch gió mây mới thấy thiên” trong «Thôi Bối Đồ», “Hưởng ngày thái bình khắp hoàn vũ” trong «Mai Hoa Thi», “Nếu hỏi năm thái bình, Dựng cầu nghênh tân chủ” trong «Lưu Bá Ôn bia ký», chỉ cuộc bức hại Pháp Luân Công của Trung Cộng cuối cùng thất bại. “Trăm năm đại sự hồn như mộng, Nam Triều phấn vàng thái bình xuân”, chỉ năm 1912 triều Thanh vong, 100 năm sau vào mùa Xuân thiên hạ thái bình, giống “Số điểm hoa mai trời đất xuân” trong «Mai Hoa Thi».
— Đoạn thứ mười hai —
Thế vũ tam phân, hữu Thánh nhân xuất,
Huyền sắc kỳ quan, long trương kỳ phục.
Thiên địa phục minh, xử trị vạn vật,
Tứ hải âu ca, ấm thụ kỳ phúc.
Tạm dịch:
Thế giới chia ba, có Thánh nhân xuất,
Đội mũ huyền sắc, trang phục rồng bay.
Trời đất sáng tỏ, sửa trị vạn vật,
Bốn biển ngợi ca, đắm trong hạnh phúc.
Giải: “Thế vũ tam phân” chỉ thiên hạ phân làm ba loại, cứu người, được cứu, và bị đào thải. “Hữu Thánh nhân xuất” là nói có Thánh nhân xuất thế. “Huyền sắc kỳ quan, long trương kỳ phục” ám chỉ “hắc long” (“huyền” là màu đen), tức năm 2012 Nhâm Thìn. Tới đây trời đất sáng tỏ, Thánh nhân sẽ sửa trị vạn vật, giáo hóa toàn nhân loại.

Giải tiên tri «Mã Tiền Khóa» của Gia Cát Lượng

“Dương phục nhi trị, Hối cực sinh minh”, ngày 21 tháng 12 năm 2012 (ngày Đông chí), nghênh đón vạn vật canh tân, bắt đầu kỷ nguyên mới.
Giới thiệu: Dự ngôn «Mã Tiền Khóa» (马前课) là do Thừa tướng Gia Cát Lượng nhà Thục Hán thời Tam Quốc sáng tác. Nhắc đến Gia Cát Lượng, có thể nói là nhà nhà đều biết, nhưng không nhiều người biết về «Mã Tiền Khóa». Tương truyền Gia Cát Lượng vào lúc nhàn hạ trong quân đã sáng tác «Mã Tiền Khóa» (tên «Mã Tiền Khóa» có nghĩa là “quẻ bói gieo trước ngựa”). «Mã Tiền Khóa» ngắn gọn súc tích phi thường, chỉ có 14 khóa, mỗi khóa dự ngôn một thời đại lịch sử, mà mỗi một khóa lại tuân theo một trật tự sắp xếp. Khi mỗi thời đại lịch sử qua đi rồi, người ta quay lại xem mới thấy Gia Cát Lượng dự ngôn chuẩn xác đến phi thường.
*  *  *
Sau đây là phần giải nghĩa:
Khóa 1 ○●●●●○ Trung Hạ
Vô lực hồi thiên
Cúc cung tận tụy
Âm cư Dương phất
Bát thiên nữ quỷ

Tạm dịch:
Không sức đổi Trời
Còng mình gắng sức
Âm tồn Dương phất
Tám ngàn nữ quỷ
Giải: “Vô lực hồi thiên, Cúc cung tận tụy” là nói bản thân Gia Cát Lượng, như ông viết trong «Xuất sư biểu»: “Thần cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi“. “Âm cư Dương phất” chỉ hoạn quan Hoàng Hạo loạn quyền, Khương Duy chỉ có thể duy trì tàn cục chứ không thể làm gì được. “Bát thiên nữ quỷ” (八千女鬼) chính là chữ “Ngụy” (魏), chỉ nước Ngụy diệt Thục Hán.
Khóa 2 ○●○○●○ Trung Hạ
Hỏa thượng hữu hỏa
Quang chúc Trung Thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông hữu hổ

Tạm dịch:
Trên lửa có lửa
Rọi sáng Trung Thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông có hổ
Giải: “Hỏa thượng hữu hỏa”, trên “hỏa” (火) có “hỏa” (火) chính là chữ “Viêm” (炎). Chỉ Tư Mã Viêm lập nên triều Tấn. “Xưng danh bất chính” chỉ triều Tấn của Tư Mã Viêm thực chất là soán ngôi Tào Ngụy mà kiến lập, mà Tào Ngụy lại là soán ngôi triều Hán mà kiến lập, danh không chính ngôn không thuận. “Giang Đông hữu hổ” chỉ Đông Tấn thành lập, đóng đô tại Kiến Khang thuộc Giang Đông. “Hổ” chỉ Tư Mã Duệ.
Khóa 3 ○●●●●● Hạ Hạ
Nhiễu nhiễu Trung Nguyên
Sơn hà vô chủ
Nhị tam kỳ vị
Dương chung mã thủy

Tạm dịch:
Nhiễu loạn Trung Nguyên
Non sông không chủ
Hai ba vị ấy
Dê cùng ngựa chạy
Giải: “Nhiễu nhiễu Trung Nguyên, Sơn hà vô chủ” miêu tả Trung Quốc vào thời loạn bát vương, ngũ hồ thập lục quốc và thời đại Nam-Bắc triều. “Nhị tam kỳ vị” (Hai ba vị ấy) chỉ một số Đế vương chỉ tại vị trong một thời gian rất ngắn. “Dương chung mã thủy” (Dê cùng ngựa chạy) chỉ đại loạn khởi từ gia tộc nhà Tư “Mã” {ngựa}, kết thúc là “Dương” Kiên kiến lập triều Tùy. Họ “Dương” (杨) với chữ “dương” {dê} (羊) là đồng âm.
Khóa 4 ●●○●○● Trung Thượng
Thập bát nam nhi
Khởi vu Thái Nguyên
Động tắc đắc giải
Nhật nguyệt lệ thiên

Tạm dịch:
Mười tám nam nhi
Khởi từ Thái Nguyên
Động ắt được giải
Nhật nguyệt tươi đẹp
Giải: “Thập bát nam nhi” là “thập bát tử”, “thập bát tử” (十八子) hợp thành chữ “Lý” (李). Chỉ thời Tùy mạt, Lý Uyên khởi binh từ Thái Nguyên. “Động tắc đắc giải” ý nói Lý Uyên khởi binh là đường sinh, không phải đường tử. “Nhật nguyệt tươi đẹp” chỉ văn minh Đại Đường sáng lạn.
Khóa 5 ○○○●●● Hạ Trung
Ngũ thập niên trung
Kỳ số hữu bát
Tiểu nhân đạo trường
Sinh linh đồ độc

Tạm dịch:
Trong năm thập niên
Số ấy có tám
Tiểu nhân đường dài
Sinh linh tàn hại
Giải: 53 năm sau triều Đại Đường, Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu cùng xưng là “Ngũ Đại”. Thời “Ngũ Đại” tổng cộng có 8 họ người được xưng là Hoàng đế, ứng với “Số ấy có tám”. Thạch Kính Đường tự xưng là Hoàng đế với Khiết Đan, ứng với câu “Tiểu nhân đường dài”.
Khóa 6 ●○○●○○ Thượng Trung
Duy thiên sinh Thủy
Thuận thiên ứng nhân
Cương trung nhu ngoại
Thổ nãi sinh Kim

Tạm dịch:
Chỉ Trời sinh Thủy
Thuận Trời hợp người
Trong cứng ngoài mềm
Thổ ấy sinh Kim
Giải: Triều Tống thực hành nền chính trị nhân từ, thuộc tính “Thủy”. Thổ khắc Thủy, như vậy triều Kim sinh ra từ Thổ chính là khắc tinh của triều Tống. “Thổ nãi sinh Kim”, “Kim” chỉ nước Kim, kẻ thù không đội trời chung của triều Tống. Chính sách nội ngoại của triều Tống có thể dùng “trong cứng ngoài mềm” để hình dung.
Khóa 7 ●○●○○● Trung Trung
Nhất nguyên phục thủy
Dĩ cương xử trung
Ngũ ngũ tương truyền
Nhĩ Tây ngã Đông

Tạm dịch:
Một nguyên về đầu
Lấy cứng đặt giữa
Năm năm tương truyền
Ngươi Tây ta Đông
Giải: “Nhất nguyên phục thủy” (Một nguyên về đầu) chỉ triều Nguyên kiến lập. “Dĩ cương xử trung” (Lấy cứng đặt giữa) chỉ người Mông Cổ thống trị cực kỳ hà khắc với người Hán. “Ngũ ngũ tương truyền” là chỉ triều Nguyên tổng cộng có 10 (=5+5) vị Hoàng đế. “Nhĩ Tây ngã Đông” chính là nói người Mông Cổ phân thành các Hãn quốc.
Khóa 8 ○○●●●○ Thượng Thượng
Nhật nguyệt lệ thiên
Kỳ sắc nhược xích
Miên miên diên diên
Phàm thập lục diệp

Tạm dịch:
Nhật nguyệt tươi đẹp
Sắc ấy như đỏ
Kéo dài liên miên
Gồm mười sáu lá
Giải: “Nhật nguyệt tươi đẹp”, chữ “nhật” (日) ghép với chữ “nguyệt” (月) chính là chữ “Minh” (明), chỉ triều Minh. “Sắc ấy như đỏ”, đỏ là “chu”, chỉ họ “Chu” (朱). “Kéo dài liên miên, Gồm mười sáu lá”, ý nói triều Minh có tổng cộng 16 đời Hoàng đế.
Khóa 9 ○●○●●● Trung Thượng
Thủy nguyệt hữu chủ
Cổ nguyệt vi quân
Thập truyền tuyệt thống
Tương kính nhược tân

Tạm dịch:
Nước trăng có chủ
Trăng cổ làm vua
Truyền mười tuyệt sạch
Kính nhau như khách
Giải: “Thủy nguyệt hữu chủ”, ba điểm Thủy (氵) cộng thêm “nguyệt” (月) rồi thêm “chủ” (主) hợp thành một chữ “Thanh” (清). “Cổ nguyệt vi quân”, “cổ nguyệt” (古月) chính là chữ “Hồ” (胡), chỉ triều Thanh do người dân tộc thiểu số (Hồ nhân) kiến lập. “Thập truyền tuyệt thống” ý nói triều Thanh từ khi nhập quan truyền được 10 đời Hoàng đế, cuối cùng là Tuyên Thống. “Tương kính nhược tân” (Kính nhau như khách) là chính phủ Quốc Dân ưu đãi các thành viên vương tộc nhà Thanh.
Khóa 10 ●○●○●● Trung Hạ
Thỉ hậu ngưu tiền
Thiên nhân nhất khẩu
Ngũ nhị đảo trí
Bằng lai vô cữu

Tạm dịch:
Lợn sau trâu trước
Nghìn người một miệng
Năm hai đảo ngược
Bạn đến không trách
Giải: “Lợn sau trâu trước” là năm Tý 1912 (sau Hợi trước Sửu), Trung Hoa Dân Quốc thành lập. “Thiên nhân khẩu” (千人口) chính là chữ “hòa” (和), chỉ thực hành cộng hòa chế. “Ngũ nhị đảo trí”, “ngũ” là ngôi Vua (có câu “cửu ngũ chí tôn”), như vậy “Năm hai đảo ngược” ý là “dân chủ”. “Bằng lai vô cữu” là quái từ, chỉ tuy có xâm nhiễu mà cũng không ngại lắm (bị Nhật Bản xâm lược nhưng không ngại).
Khóa 11 ○●○○●○ Trung Hạ
Tứ môn sạ tích
Đột như kỳ lai
Thần kê nhất thanh
Kỳ đạo đại suy

Tạm dịch:
Bốn cửa mở toang
Thình lình đột ngột
Tiếng gà gáy sớm
Đạo này đại suy
Giải: “Bốn cửa mở toang” chính là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản bất ngờ được thiên hạ, văn hóa truyền thống 5.000 năm bị phá hoại. “Tiếng gà gáy sớm, Đạo này đại suy”, chỉ năm Dậu {gà} 2005, «Cửu bình cộng sản đảng» phát hành, dân chúng  Trung Quốc đua nhau thoái xuất khỏi đảng,  đã có hơn 115 triệu người thoái xuất khỏi  ĐCSTQ, thế đảng bắt đầu suy bại.
Khóa 12 ●○○○○● Thượng Trung
Chửng hoạn cứu nạn
Thị duy Thánh nhân
Dương phục nhi trị
Hối cực sinh minh

Tạm dịch:
Cứu họa cứu nạn
Duy có Thánh nhân
Dương phục mà trị
Đêm hết ngày rạng
Giải: “Cứu họa cứu nạn, Duy có Thánh nhân”, giữa thời loạn thế, Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền cứu người. “Dương phục mà trị, Đêm hết ngày rạng”, chỉ ngày 21 tháng 12 năm 2012 (ngày Đông chí), nghênh đón vạn vật canh tân, bắt đầu kỷ nguyên mới. Theo sách «Hoàng Cực kinh thế» của Thiệu Ung tiên sinh triều Tống, năm 2012 là quẻ “Phục” (Địa Lôi Phục). Còn “Hối cực sinh minh” (Đêm hết ngày rạng) chính là Đông chí trong 24 tiết khí, là ngày Âm cực đỉnh Dương mới sinh, vừa trùng khớp với ngày trong tiên tri của người Maya.
Khóa 13 ○●●○○○ Thượng Trung
Hiền bất di dã
Thiên hạ nhất gia
Vô danh vô đức
Quang diệu Trung Hoa

Tạm dịch:
Hiền không rơi mất
Thiên hạ một nhà
Không danh không đức
Chói lọi Trung Hoa
Giải: Pháp Luân Đại Pháp không chỉ hồng truyền khắp Trung Quốc mà lan tỏa trên toàn thế giới, chỉnh thể đạo đức nhân loại hồi thăng, là tượng thế giới đại đồng. Giống với Tượng 59 «Thôi Bối Đồ» (“Vô thành vô phủ, Vô nhĩ vô ngã, Thiên hạ nhất gia, Trị trăn đại hóa”).
Khóa 14 ○●○●○● Trung Hạ
Chiêm đắc thử khóa
Dịch số nãi chung
Tiền cổ hậu kim
Kỳ Đạo vô cùng

Tạm dịch:
Bói được quẻ này
Dịch số đã hết
Trước cũ sau mới
Đạo ấy vô cùng
Giải: Văn minh lần này kết thúc, kỷ nguyên mới bắt đầu. Giống với Tượng 60 «Thôi Bối Đồ» (“Nhất Âm nhất Dương, Vô chung vô thủy, Chung giả nhật chung, Thủy giả tự thủy”).
Ghi chú: Các dự ngôn khác cũng nói về quẻ “Phục” năm 2012.
«Mai Hoa Thi»: “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân”: năm 2011 là quẻ “Bác”, năm 2012 chính là quẻ “Phục”.
«Bộ Hư Đại Sư dự ngôn thi»: “Thế vũ tam phân, Hữu Thánh nhân xuất, Huyền sắc kỳ quan, Long trương kỳ phục, Thiên địa phục minh, Xử trị vạn vật, Tứ hải âu ca, Ấm thụ kỳ phúc”.
«Thôi Bối Đồ», Tượng 1: “Chu nhi phục thủy”; «Thôi Bối Đồ» tổng cộng 60 Tượng, tuần hoàn một vòng theo lục thập giáp tử.